Phật thuyết Kinh A Di Đà
Hán
dịch: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Kệ
Khai Kinh
Phật Pháp rộng sâu rất
nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó
tìm cầu
Con nay nghe thấy
chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa
nhiệm mầu
Nam Mô Liên Trì Hải Hội
Phật Bồ Tát (3lần)
Kệ Tán Phật A Di Ðà
A Di Ðà Phật thân sắc
vàng,
Tướng tốt rực rỡ hào
quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di
uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn
biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số
Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở
trong,
Bốn mươi tám nguyện độ
chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên
giải thoát.
KINH
A DI ĐÀ YẾU GIẢI
Linh
Phong Ngẫu Ích Trí Húc Đại Sư Soạn
Việt dịch: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tuệ Nhuận
Việt dịch: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tuệ Nhuận
-o0o-
PHẬT
TÁNH
Lời tựa A Di Đà Kinh Yếu Giải mới dịch ra tiếng
Việt.
Tu
Thiền Tông mau chóng thành Phật nhất, tu Tịnh Độ tông còn mau chóng và chắc
chắn hơn. Tu môn này thì mỗi tiếng niệm Phật danh là thấy rõ Phật tính hiện
tiền. Thấy rõ Phật tính là thành Phật quả, thành Phật quả là chuyển hóa được
quả đất Ta Bà thành quả đất Cực Lạc, là diệt trừ được tai nạn chiến tranh tàn
sát cho quần chúng hết đau khổ, là trả lại hạnh phúc, hòa bình, tự do, bình
đẳng cho tất cả muôn loài.
Tuệ
Nhuận
Phật
nói: “Tất cả chúng sinh ai cũng có tính Phật thì ai cũng sẽ thành Phật.”
Bồ
Tát Giới nói: “Ông là Phật sẽ thành, tôi là Phật đã thành, thường khởi tin như
thế, giới phẩm đầy đủ rồi…”
Theo
Phật phải học Phật, học Phật có ba môn: “Giới, Định, Huệ”, giống như 3 chân cái
đỉnh trầm, gãy một chân thành đồ vô dụng; người tam học thiếu một môn cũng là
người vô dụng. Học đủ 3 môn áp dụng vào đời sống của mình và của người, gọi là
thành Phật.
Học
Phật tới đích thâm truyền, chỉ cần hiểu suốt chính nghĩa một câu này, được đầy
đủ 3 môn Giới, Định, Huệ: “Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, ai cũng thành
Phật”. Nếu ta áp dụng vào đời sống của ta và của muôn loài, ta có 4 thực hiện:
1)
Ta thấy ta với mọi loài là bình đẳng (1).
2) Ta không dám xâm lăng áp bức sát hại một loài nào, dù là loài rất nhỏ mọn (2).
2) Ta không dám xâm lăng áp bức sát hại một loài nào, dù là loài rất nhỏ mọn (2).
3)
Ta giữ được định tâm bình đẳng đối với ta và đối với mọi loài (3).
4)
Ta có tính Phật, mọi loài cũng có tính Phật, ta thành Phật, mọi loài cũng thành
Phật (4).
Mắt
thấy thế, tâm biết thế, là mắt Phật, tâm Phật đấy rồi, còn phải tìm đâu nữa.
Một người thấy và biết như thế là người siêu phàm thoát tục, người xuất gia,
xuất thế, người thành Bồ Tát, thành Phật. Khế Kinh gọi là “người chính biến
tri”. Trái lại, kẻ nào không thấy, không biết như thế gọi là kẻ tà kiến, tà
tri, là phàm phu si ám, là chúng sinh mê muội trong 7 Thú: Thiên, tiên, nhân, a
tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Tính
Phật là tính hiểu biết sáng suốt, không sai lầm một ly, tất cả muôn vật, muôn
sự, muôn pháp trong vũ trụ vô biên. Tất cả chúng sinh trong 7 thú, ai cũng có
tính Phật hiểu biết sáng suốt ấy, lẽ dĩ nhiên ai cũng là bình đẳng, ai cũng là
Phật; lẽ dĩ nhiên không còn ai xâm lăng, áp bức, sát hại. Lẽ dĩ nhiên tai nạn
chiến tranh phải tuyệt dứt, hạnh phúc, hòa bình phải trở lại. Và lẽ dĩ nhiên
không còn có những thế giới và những căn thân của chúng sinh trong 7 thú nữa,
chỉ còn một thế giới Cực Lạc với một loại thân vô lượng thọ, vô lượng quang
(Amita) mà thôi.
Đó
là công nghiệp Tịnh Độ hóa cái thế gian ngũ ấm 7 thú mà người theo đạo Phật
phải làm ngay. Sự nghiệp Tịnh Độ hóa thế gian ô trược này mà không thành thì sự
học Phật của mình chưa có gì, vì mình chưa đủ Giới, Định, Huệ, chưa hiểu Phật
tính là gì, chưa thực hiện được chính nghĩa bình đẳng của Phật.
Học
Phật cần phải hiểu tính Phật, cốt để hiểu biết tính của mình, tính của người,
tính của muôn vật, muôn pháp trong vũ trụ vô biên (tự giác, giác tha). Mình sở
dĩ hiểu biết sáng suốt chu biến như thế, là bởi tính Phật của mình nó hiểu
biết.
Kinh
Niết Bàn nói: “Tất cả chúng sinh trong 7 thú và các vị Thanh Văn, Duyên Giác
đều chẳng thấy được Phật tính của mình. Các vị Thập Trụ Bồ Tát mới thấy được,
nhưng thấy không rõ. Chỉ có chư Phật và các vị đại Bồ Tát mới thấy được rõ
ràng”.
Ngài
Sư Tử Hống Bồ Tát hỏi Phật: “Phật tính của chúng sinh là một hay nhiều? Tất cả
chúng sinh cùng có chung Phật tính, hay là mỗi người có một Phật tính riêng
biệt?”
Phật
đáp: “Tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật cùng có chung một Phật tính; nhưng
Phật tính chẳng phải một, chẳng phải hai, Phật tính bình đẳng, giống như hư
không”.
Nghe Phật dạy ngài Sư Tử Hống Bồ Tát như thế, chúng sinh
phàm phu si ám trong 7 thú, liệu có hiểu biết Phật tính của mình nó thế nào
không?
Ta
nên nghe kỹ, nghe kỹ:
Phật
nói: “Nó chẳng phải một”, rõ ràng là nó nhiều. Nhưng Phật lại nói: “Nó chẳng
phải hai”, vậy thì nó lại là một. Phật lại nói: “Nó bình đẳng như nhau và nó
giống như hư không”, vậy nó vẫn là nhiều (vì nó bằng nhau), nhưng nó giống như
hư không thì nó phải là một (vì hư không vô biên, không thể có hai được).
Ta
tuy là phàm phu trong bảy thú, nhưng nếu ta có chút thông minh, thẳng thắn mà
suy nghĩ, ta cũng hiểu được chính nghĩa lời Phật dạy bảo.
Một
khi Phật nói: Phật tính của tôi, của anh, của nó, của chúng sinh, của chư Phật
đều là bình đẳng như nhau, hẳn anh cũng hiểu như tôi rằng: Như nói Tính của
anh, lẽ dĩ nhiên không phải Tính của tôi. Và khi nói Tính của tôi, cố nhiên
cũng không phải Tính của anh. Rõ ràng, anh có một Tính, tôi một Tính: Một với
một là hai, đâu có phải là một (đó chính là nghĩa: Bất Nhất). Chỉ có điều Phật
lại nói: Tính anh và Tính tôi bình đẳng, rõ ràng 2 Tính của hai ta bằng nhau.
Khi đã nhận rõ 2 Tính bằng nhau, nên coi 2 là 1, không nên phân biệt làm 2 (đó
là chính nghĩa: Bất Nhị).
Phật
lại nói: Phật tính của ta bình đẳng như hư không, thì dù biết nó là nhiều,
nhưng không ai có tài phân tách hư không ra làm nhiều được, mà phải để nó hợp
nhất với nhau làm một (đó là chính nghĩa: “bất nhất mà lại bất nhị” và “bình
đẳng mà lại như hư không”).
Khi
Phật nói: Phật tính của chúng sinh là bằng nhau, ta phải ước lượng mỗi tính
rộng rãi, cao là ngần nào, xem nó có thật bằng nhau hay không. Nhưng Phật đã
bảo Tính ấy rộng lớn bằng cả hư không thì chẳng ai có tài đo được hư không vô
biên ấy, cũng không thể tách hư không ra làm hai hoặc làm nhiều được.
Vậy
ta nên sáng suốt cố hiểu một tí: Phật tính của chúng sinh là bình đẳng (bằng
nhau), lẽ dĩ nhiên phải có nhiều cái so sánh với nhau, mới thấy nó bằng nhau;
chứ chỉ có một cái thì bằng nhau với cái gì? – Ta đã nhận rõ tính Phật của ta
là bằng nhau, lẽ dĩ nhiên không có cái lớn, cái nhỏ, cái nào cũng phải bằng
nhau và phải rộng lớn bằng cả hư không; vậy tuy là nhiều, mà ta đành phải để nó hợp nhất với nhau làm một, bởi
vì chẳng ai có tài phân tách hư không ra làm 2 hoặc làm nhiều được (đó là chính
nghĩa: bất nhị).
Anh và tôi, hai ta cùng sống chung trên một quả đất, trong một hư không. Nhưng anh ở bên Đông, tôi ở bên Tây, anh đừng mê muội, tưởng lầm quả đất và hư không phải cắt đôi ra làm hai để anh nắm chặt lấy một phần làm của riêng anh và riêng cho tôi một phần làm của riêng tôi! – Không phân tách được đâu!
Anh và tôi, hai ta cùng sống chung trên một quả đất, trong một hư không. Nhưng anh ở bên Đông, tôi ở bên Tây, anh đừng mê muội, tưởng lầm quả đất và hư không phải cắt đôi ra làm hai để anh nắm chặt lấy một phần làm của riêng anh và riêng cho tôi một phần làm của riêng tôi! – Không phân tách được đâu!
Hư
không và quả đất chẳng khi nào chịu để hai ta chia sẻ nó, nếu ta tham vọng cố
làm, thì chỉ thêm nhọc xác gây oán thù với nhau đời đời vô cùng tận; gây cái
mầm đại bất bình đẳng, đại chiến tranh thế giới. Mầm ấy chỉ chờ duyên là kết
quả tức thì.
Phật
tính của anh to bằng cả hư không, Phật tính của tôi cũng phải to bằng cả hư
không, thì mới gọi là bằng nhau, là bình đẳng chứ.
Nếu anh và tôi có tài chia được hư không ra làm hai khu vực Đông và Tây, thực sự thì hư không sẽ mất cá tính hư không bình đẳng của nó rồi, còn chi là hư không bình đẳng nữa. Lại nữa, hư không là vô biên (không có bến bờ), nếu ta có tài chia được nó ra làm 2 khu vực khác nhau, thì nó sẽ mất cá tính vô biên, nó sẽ thành 2 cái hư không hữu biên, là hai cái không thể có được ở thế gian này, nó chỉ là hai cái: lông rùa và sừng thỏ. Phật tính như hư không của hai ta là cá tính diệu chân như, “thường trụ chu biến”.
Nếu anh và tôi có tài chia được hư không ra làm hai khu vực Đông và Tây, thực sự thì hư không sẽ mất cá tính hư không bình đẳng của nó rồi, còn chi là hư không bình đẳng nữa. Lại nữa, hư không là vô biên (không có bến bờ), nếu ta có tài chia được nó ra làm 2 khu vực khác nhau, thì nó sẽ mất cá tính vô biên, nó sẽ thành 2 cái hư không hữu biên, là hai cái không thể có được ở thế gian này, nó chỉ là hai cái: lông rùa và sừng thỏ. Phật tính như hư không của hai ta là cá tính diệu chân như, “thường trụ chu biến”.
Thế
nào là “thường trụ”? Là nó thường hằng ở suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị
lai, chứ nó không cố định chỉ ở một thời gian này hay một thời gian kia. Giờ
phút nào nó cũng có mặt hiện tại, không đi đâu, không ở đâu đến.
Thế
nào là “chu biến”? Là nó thường hằng ở khắp cả mười phương: Đông, Tây, Nam,
Bắc, tứ duy, thượng, hạ, chứ nó không cố định chỉ ở một phương này hay một
phương kia. Chỗ nào cũng phải có mặt nó hiện tại, nó không hề ở đâu đến, cũng
không hề đi đâu bao giờ.
Có
hiểu được chính nghĩa bốn chữ “thường trụ chu biến” mới hiểu được lời huyền vi
của Phật. Phật tính của chúng sinh không có cái lớn, cái nhỏ, cái nào cũng bình
đẳng, cái nào cũng rộng lớn bằng cả hư không. Khi mắt Phật, tâm Phật của anh đã
mở ra, anh thấy rõ, biết rõ hôm nay anh mới đến ở phương Đông mà Phật tính như
hư không của anh nó vẫn đã ở phương Đông từ hôm qua, từ bao nhiêu kiếp trước
rồi; dù ngày mai anh bỏ phương Đông đi phương khác, Phật tính của anh vẫn ở mãi
đấy không hề đi đâu.
Lại nữa, như hiện nay anh đang ở phương Đông, tôi ở
phương Tây, nhưng Phật tính của hai ta, nó không hề bị bó buộc vào trong hai
cái thân ta bé nhỏ mà ở ra làm hai nơi đâu! Tuy thân chúng ta, mỗi người mỗi
phương, mà Phật tính của ta, cũng như hư không của ta, nó vẫn thường hằng ở
khắp mười phương, chứ không phải đút nút chặt vào trong cái thân ta như một tí
hư không bị đút nút chặt vào trong một cái hũ tí hon đâu!
Anh
nên nghe kỹ lời Phật dạy dỗ tôn giả Ananda trong kinh Surangàma:
Phật
đặt ra một người rất ngu độn, vô minh, tà kiến làm thí dụ, để diễn giảng cái
tính Duy Thức (tức Tính Phật) cho tôn giả nghe. Phật nói: Trong thế gian ngũ ấm
của ông, có cái Thức ấm, vốn là tính diệu chân như, tính Như Lai tạng nó rộng
lớn chu biến thường trụ giống như hư không. Bây giờ có người ở phương Đông, lấy
cái bình Tần Già (5) đút nút miệng bình lại, trong bình ấy đựng đầy hư không,
vác đi xa ngàn dặm bố thí cho người bạn ở phương Tây. Người mê muội ấy vọng
tưởng rằng cái bình Tần Già của mình đã mang mất một ít hư không ở phương Đông
đi rồi; khi họ đến phương Tây, mở nút đổ ra, họ tưởng sẽ thấy một ít hư không
của họ lấy ở phương Đông đổ vào phương Tây! Không phải thế đâu, các ông thiện
nam tử ơi! Khi ông đem thân và bình đựng hư không đi khỏi phương Đông thì hư
không của ông ở phương Đông vẫn nguyên vẹn chẳng mất đi tí nào. Và khi ông đến
phương Tây đem hư không ở bình đổ ra, hẳn ông cũng chẳng thấy ở phương Tây thêm
ra được một tí hư không nào!
Bây
giờ mắt Phật, tâm Phật của ông đã mở rộng ra, ông đã thấy rõ, biết rõ Phật tính
của ông cũng như của tôi, cũng như của chư Phật và của chúng sinh trong mười
phương Pháp giới đều là bình đẳng ngang nhau, không có cái nào to, cái nào nhỏ,
cái nào cũng rộng lớn bằng cả hư không, nó vẫn y nguyên ở khắp mười phương, nó
không đi đâu lại đâu cả, chỉ có cái thân của chúng sinh vác cái bình hành
nghiệp vọng thức, vác đi nay đây, mai đó, vòng quanh trong 7 thú đấy mà thôi.
Chúng
sinh mê muội trong 7 thú cứ tưởng lầm cái thân ông này to, vác cái bình lớn
đựng được nhiều hư không Phật tính, còn cái thân con kiến, con ong bé tí, vác
cái bình nhỏ xíu đựng được ít thôi. Vì vô minh tưởng tượng ấy mà nảy nở ra biết
bao trí óc bất bình đẳng phân biệt nòi giống, màu da, mạnh ai nấy được, tranh
cướp lấy thật nhiều hư không về bè mình, định nô lệ hóa những loài nhược tiểu!
Rốt cuộc hư không chẳng cướp được, chỉ cướp được cái bình nghiệp báo thật to.
Than ôi! Chiến tranh chưa kết liễu, bình đã vỡ, thân đã tàn. Hư không Phật tính
của người nào vẫn nguyên vẹn của người ấy, chẳng ai cướp được của ai một tí
nào!
Vì muốn diệt khổ bất bình, chiến tranh, tai nạn do chúng
sinh mê muội trong 7 thú đã tạo ra, nên Phật Thích Ca phải giáng sinh vào thế
gian ngũ ấm ô trược và nói pháp cho chúng sinh giác ngộ rằng: Phật tính của tất
cả chúng sinh, của tất cả chư Phật là bình đẳng, rộng lớn như hư không, bất
nhất và bất nhị. Sự nghiệp vô cùng vĩ đại của Phật và quyết định Duy Thức hóa
và Tịnh Độ hóa cái thế gian ngũ ấm ô trược đầy bất bình: sát, đạo, dâm, vọng,
tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, chuyển nó thành thế giới thất bảo như thế
giới Cực Lạc Tây phương của Phật A Di Đà đã chuyển.
Vậy
đương khi ông ngồi đây niệm Phật cầu sinh về Cực Lạc Tây phương, cách xa đây
mười vạn ức Phật độ, thế mà Phật tính của ông vẫn đã ở Cực Lạc rồi, chẳng phải
chờ khi ông chết, ông vác cái bình Tần Già đựng một ít hư không ở đây về Cực Lạc làm gì!
Ông đừng tà kiến vô minh mê muội tưởng lầm như thế.
Còn
ai muốn niệm Phật cầu sinh về thế giới Đông phương của Phật Dược Sư cách xa đây
nhiều Phật độ hơn, nhiều bằng mười số cát sông Hằng, thế mà Phật tính của người
ấy cũng vốn đã ở phương Đông rồi, người ấy đừng mê muội đựng một ít hư không ở
đây vào cái bình Tần Già mang đi, mang lại cho thêm phiền.
Như
vậy, mỗi tiếng niệm Phật của ta ở đây đã rung cảm Phật tính của ta ở khắp mười
phương rồi, tùy ý ta muốn hiện sinh ở phương nào, Phật tính của ta hiện thân
ngay ở phương ấy. Thật là Bản Như Lai Tạng diệu Chân Như tính của người, của
ta, của chúng sinh, của Phật bao giờ cũng thường hằng, linh thông cảm ứng với
nhau vô lượng vô biên, vô cùng vô tận!
Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam
mô Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tuệ
Nhuận
(1)
Câu này là đã phát ra trí tính bình đẳng.
(2)
Cây này là đã đủ giới luật rồi.
(3)
Câu này là đã được nhất tâm bất loạn.
(4)
Câu này là đã đủ trí tuệ đại quang minh đại bình đẳng.
(5)
Nguyên tiếng Phạm Ấn Độ đọc là Kalavinka, dịch âm ra chữ Hán là Ca Lăng Tần
Già, là tên con chim ở núi Tuyết Sơn (Hymalaya), tiếng chim hót hay hơn hết các
loài chim. Người Ấn Độ rất yêu tiếng chim này, nặn cái bình có hình tượng giống
con chim này, nên gọi tắt là bình Tần Già.
Lời tựa dịch Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải
Người học Phật tinh thâm ai cũng biết tên tuổi ngài
Trí Húc Đại Sư là một lãnh tụ trong giới Thiền Tông. Từ miệng Ngài đã nói ra:
“Khi Húc mới xuất gia, tự phụ là Thiền Tông, khinh miệt các giáo môn khác, dám
nói rằng: "Phép Niệm Phật riêng cho người trung căn và hạ căn". Về
sau, nhân vì đau nặng mới phát tâm cầu về Tây Phương, mới chịu nghiên cứu các
sách: Diệu Tông, Viên Trung, Vân Thê Sớ Sao, mới biết phép Niệm Phật Tam Muội
thực quý giá vô ngần, mới chịu hết lòng niệm Phật với một sức mạnh bằng vạn con
trâu kéo không lại.
Một ông bạn tu Tịnh Độ của tôi là ông Khứ Bệnh, ông
muốn cho ý nghĩa lớn lao của kinh này được rất rõ rệt, mà lời giảng đừng rậm
quá, ông yêu cầu tôi trước thuật một Yếu Giải, tôi cũng muốn cùng với các hữu
tình trong Pháp giới cùng sinh về Cực Lạc, nên tôi không từ chối, cầm bút viết
luôn từ ngày 27 tháng 9 năm Đinh Hợi, đến mồng 5 tháng 10 vừa xong, tất cả mất
chín ngày. Tôi mong rằng mỗi câu, mỗi chữ là một môn tư lương, mỗi người thấy,
mỗi người nghe cùng lên ngôi Bất Thoái, người tin, người nghe cùng gieo giống
Bồ Đề, người chê, người khen cùng về nơi Giải Thoát.
Tôi ngửa trông chư Phật, Bồ Tát nhận lấy và chứng
minh cho, các bạn đồng học tùy hỷ giúp sức. Kinh Phật nói rằng: "Đời mạt
pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người tu đắc đạo; chỉ còn nhờ phép Niệm
Phật mới được độ thoát". Than ôi! Nay chính là đời Mạt Pháp rồi mà bỏ pháp môn Niệm Phật này
thì còn có pháp môn nào tu học được nữa?
Trên đây là lời văn kết luận trong sách Yếu Giải
kinh Phật thuyết A Di Đà của ngài Trí Húc Đại Sư. Riêng về phần tôi, trước đây
hơn 20 năm, tôi phát tâm học Phật, tôi cũng tự phụ có đủ thông minh tu học được
Thiền Tông, tuy không có thầy, mà cũng mon men vào cửa ải ấy. Phúc cho tôi quá,
ngày 26 tháng 3 năm Canh Thìn (Mai 1940), tôi được gặp ngài Thái Hư Đại Sư qua
chơi Hà Nội, tôi đến bái yết Ngài trong một khách sạn, tôi hỏi Ngài về Thiền
Tông. Ngài nói: “Tôi xét thấy ở Việt Nam, cư sĩ đã tu Tịnh Độ rồi, thế
là hay hơn cả. Vả chăng, tu Tịnh Độ đến chỗ niệm Phật nhất tâm bất loạn thì
Thiền Tông của ngài Quán Thế Âm, hay của ngài Đại Thế Chí đều ở cả trong chỗ ấy
rồi”. Tôi liền quy y Ngài và xin Ngài cho nghe thế nào là có nhiều thiện căn,
nhiều phúc đức để sinh về Cực Lạc. Ngài nói: “Thông thường, nghĩa thiện căn là
tâm Bồ Đề mình có 5 căn: Tín, Tiến, Niệm, Định, Huệ. Phép tu Tịnh Độ là một
pháp môn rất khó tin. Người nào có tâm tin sâu mới chịu dốc lòng phát nguyện đi
sinh sống ở Tịnh Độ, chỉ người ấy mới có đủ thiện căn (bắt đầu đã có Tín căn và
Tiến căn rồi). Lại thêm có tâm niệm Phật luôn luôn không ngừng, là có Niệm căn.
Niệm mãi rồi có cái tâm nhất định là Định căn. Thế là 5 thiện căn, đã có bốn,
chỉ còn chờ đón ngày đi sinh sang Tịnh Độ, nếu có thể thì trước khi sang, là
ngày tỏ ngộ được “vô sinh”, ấy là Huệ căn. Thế là 5 căn đầy đủ cả. Trong khi tu
tập năm căn ấy; lại tu thêm các món tư lương Bồ Đề là tu những phép: Trì Giới,
Nhẫn Nhục, Bố Thí v.v… cho có được nhiều duyên phúc đức, thì mới đúng với cái
nghĩa: “Đa thiện căn, đa phúc đức nhân duyên, đắc sinh bỉ độ”.
Nghe xong, tôi sung sướng, không dám ngồi lâu nữa,
cho được nghe thế là đại phúc rồi, liền cáo từ. Ngài nói: “Tôi
biết cư sĩ là một đạo khí, khi về nước có pháp bảo sẽ gởi tặng sau. Chúc cư sĩ
vào Như Lai Tạng đem ân huệ Phật nhuần thấm sinh linh”.
Lại một hạnh phúc, tôi không
nhớ vì đâu, có lẽ là của một bạn hiền đem biếu, trong tủ kinh tôi có một quyển
Di Đà Yếu Giải, tôi đọc qua một lần như người mới tìm thấy vật báu của mình mất
đã nhiều đời. Tôi phát tâm dịch ra Việt văn để cống hiến đồng nhân; vì ít phúc
duyên, từ đấy đến nay vẫn không dịch được. Nay tôi họp anh em lại diễn giảng
sách ấy, mong có người nối chí và giúp sức, nhưng chưa gặp ai, một thân vừa gìa
vừa đau, tôi cầu nguyện cho thân tôi được bệnh tật tiêu trừ, nhất là cái cố tật
Vô Minh; thời gian tao loạn cấp lắm, lần này tôi phải gắng hết sức dịch cho
xong. Ngửa mong chư Phật, Bồ Tát phù trì và các vị thiện tri thức tùy hỷ gia
bị, ngõ hầu cùng với hết thảy người nhất tâm tín nguyện niệm “Nam mô A Di Đà
Phật” cùng về Cực Lạc Tây Phương.
Trước khi dịch kinh này và để các vị chứng minh phép tu Tịnh Độ cao quý
và chắc chắn hơn phép tu Thiền Tông, tôi hãy dịch, của ngài Vĩnh Minh Thọ thiền
sư, là một vị đại đức trong Thiền Tông mà cũng phải tu Tịnh Độ. Bốn bài kệ của
Ngài như sau này:
Có Thiền tông, có Tịnh Độ,
Như thêm sừng cho mãnh hổ.
Đời hiện tại làm thầy người,
Đời vị lai làm Phật, Tổ.
Có Thiền tông, không Tịnh Độ,
Mười người tu, chín người rớt.
Ấm cảnh (1) nếu thấy hiện ra,
Chỉ chớp mắt là theo nó.
Không Thiền tông, có Tịnh Độ,
Vạn người tu, vạn người đỗ (đắc).
Đã được thấy A Di Đà,
Còn lo gì chẳng khai ngộ.
Không Thiền Tông, không Tịnh Độ,
Địa ngục đêm ngày đau khổ.
Muôn đời nghìn kiếp còn lâu,
Nhờ cậy ai, ai tế độ?
Hà Nội, sáng ngày 7 tháng 10 năm Tân Mão (ngày 5
tháng 11 năm 1951).
Bồ Tát giới đệ tử.
Tuệ Nhuận cẩn tự.
(1) Ấm cảnh là cảnh Ngũ Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và
Thức. Năm cảnh này thường hiện ra để che lấp tâm Bồ Đề. Người tu Thiền Tông cốt
ngồi yên để soi thấy tâm Bồ Đề hiện ra. Nhưng nếu chẳng thấy tâm Bồ Đề mà chỉ
thấy ấm cảnh hiện ra, tức thì phải theo nó đi làm chúng sinh mãi mãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét