Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp
Cư sĩ
DiệuÂmDiệuNgộ
Phật lịch
2551 – 2007
Lời Giới
Thiệu
Vào khoảng
đầu năm 2007, đệ tử của tôi là cư sĩ
DiệuÂmDiệuNgộ
có nhờ tôi duyệt dùm tập sách “Ý
Nghĩa
Hoằng Pháp và Hộ Pháp” gồm 40 đề tài do cô
biên soạn.
Cô nhờ tôi xem lại có chỗ nào thiếu sót hoặc
sai về
giáo lý, đồng thời sửa dùm những chỗ chưa thấu
hiểu.
Sau khi duyệt qua, tôi rất ngạc nhiên, không ngờ
đệ tử của
mình thực hiện được những ý tưởng và nội
dung của
tập sách thật là bổ ích vô cùng. Có những bài
tôi phải
đọc đến ba lần vì quá thực tế, mang lại lợi ích
cho người
tu tập.
Cô là một Phật Tử tại gia tu tập pháp môn Tịnh
Độ với
thời gian chưa dài lắm mà có hiệu quả đáng
khích lệ.
Qua nội dung những bài viết của cô, tôi thấy
sự tu tập
và khả năng nhận thức về cơ bản giáo lý Phật
Đà mà
cô nhận định một cách trung thực và có hiệu
nghiệm
qua quá trình tu tập, dù biết rằng Phật pháp cao
siêu,
vô lượng vô biên, không thể ai tự hào hiểu biết
hết, trừ
những bậc Giác ngộ hoàn toàn. Hiện tại trên
con đường
tu tập chúng ta có thể trao đổi những kinh
nghiệm
và khuyến tấn cho nhau để cùng hiểu biết.
Tôi vô cùng hoan hỷ và xin góp phần hồi hướng
cho người
đệ tử có nhiệt tâm để hoàn thành tác phẩm
“Ý
Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp.” Đồng thời giới
thiệu đến
các bậc thiện tri thức, cùng các hành giả niệm
Phật. Nếu
đọc qua có những gi chưa đầy đủ, còn thiếu
sót,
xin hoan hỷ chỉ dạy thêm, chắc chắn còn nhiều
điều
chưa thấu đáo.
Mùa an
cư năm Đinh Hợi
Ngày 12 tháng 7 năm 2007
SA MÔN
THÍCH GIÁC HẠNH
Lời Mở
Đầu
Kính
thưa quý bạn! Ba đời mười phương chư
Phật,
chư Bồ Tát thị hiện đến thế giới Ta Bà này không
ngừng
nghỉ cũng chỉ vì một chữ Tâm của chúng ta.
Phật
Thích Ca Mâu Ni thị hiện đến thế giới Ta Bà này
gần ba
ngàn năm trước, cũng vì một chữ Tâm của
chúng
ta mà Ngài đã phải thuyết pháp hết 49 năm. Sau
khi Phật
nhập niết bàn, chư Tăng, Ni tiếp tục thay Phật
để giảng
giải một chữ Tâm và các Ngài đã giảng hết
gần ba
ngàn năm nay vậy mà chúng ta vẫn chưa chịu
thức tỉnh.
Chúng
tôi nay không biết lấy gì để đền ơn cho ba
đời mười
phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh
Tăng,
chỉ biết theo chân quý Ngài tiếp tục giảng giải
một chữ
Tâm để cúng dường đến mười phương chư
bạn.
Đây là
cuốn sách mà chúng tôi đã dùng hết tâm
huyết
và tinh thần để đúc kết tất cả tinh hoa cốt tủy,
những
gì mà Phật đã dạy trong suốt 49 năm thuyết
pháp độ
sinh. Chúng tôi mong cuốn sách nhỏ này có
thể
giúp chư bạn tìm lại được chơn tâm để biết mình là
ai. Xin
quý bạn hãy nhín một chút thời gian quý báu để
đọc kỹ
cuốn sách này, vì nó sẽ trả lời cho quý bạn biết
hết tất
cả.
Con
xin cúi đầu đãnh lễ, cảm tạ ân đức của đấng
từ phụ
Thích Ca Mâu Ni và ba đời mười phương chư
Phật,
chư Bồ Tát đã soi đường cho chúng con đi.
Con xin
cúi đầu đãnh lễ, cảm tạ ân đức của Lịch
Đại Tổ
sư, chư Đại thánh hiền trong quá khứ cũng như
hiện tại
đã dày công hoằng truyền chánh pháp. Nhờ ân
đức cao
sâu của quý Ngài mà tam tạng giáo pháp Phật
mới được
tồn tại cho đến ngày hôm nay cho chúng con
có đầy
đủ kinh sách để mà tu học.
Chúng
tôi kính mong chư bạn đồng tu đóng
góp những
điều sai sót để cuốn sách được hoàn
thiện
hơn trong kỳ tái bản.
Nam Mô A
Di Đà Phật
K í n h g h i
D i ệuÂmDiệuNgộ
Thỉnh cầu
Dù cho
bận rộn đến đâu
Xin người
nán lại đọc sâu sách này
Mỗi câu
mỗi chữ tỏ bày
Kho
tàng diệu pháp Di Đà tự tâm.
Ước
mong huynh đệ tình thâm
Phát Bồ
Đề nguyện trở về chơn tâm
Thoát
vòng sanh tử tối tăm
Vãng
sanh Cực Lạc cùng thăng liên đài.
(tức
thành Phật)
Thà dốt
Tôi là
người không biết làm thơ,
Luật lệ
thi ca tôi không rõ
Lo: hiểu
rồi chướng ngại hồn thơ.
Thà dốt
để dòng tâm lưu xuất.
Hòa tâm
hồn vạn vật ung dung
Ôm vũ
trụ vào tâm tỉnh thức
Lý, sự
dung hòa đạo là tâm
Ái ngại
lo chi từ ngữ tạm
Tâm là
luật, chơn là hồn thơ!
Đạo Phật
Nghĩa Là Gì?
Đạo Phật
không phải là tôn giáo được đặt ra bởi
một đấng
thiêng liêng tuyệt đối nào đó để bắt buộc con
người
phải tuân theo mệnh lệnh, tôn thờ hay phục tùng.
Đạo là đạo tâm, Phật là Phật tánh. Đạo Phật dạy
cho ta
biết quay về để sống với chơn tâm (Phật tánh) sẵn
có của
ta. Đạo Phật là giáo học dạy về chơn tướng của
vũ trụ,
nhân sinh, đạo tâm và giải thoát. Chơn tướng
của vũ
trụ là dạy cho ta biết vũ trụ được thành tựu hoại
diệt
như thế nào. Chơn tướng nhân sinh là dạy cho ta
biết sự
biến hóa nào đã tạo ra có Phật, có chúng sanh
hữu
tình và vô tình. Đạo tâm là dạy cho ta từ bi, thánh
thiện,
đạo đức… Giải thoát là dạy cho ta phương pháp
tu hành
để chuyển phàm thành Phật. Tóm lại, đạo Phật
dạy cho
ta thành Phật để sống mãi không chết, trẻ mãi
không
già, giàu hoài không nghèo và hạnh phúc an lạc
vĩnh cửu
(khi vãng sanh thì ta sẽ có tất cả vĩnh cửu).
Nhưng tiếc thay, chúng ta xưa nay không hiểu,
ngược lại
còn hiểu lầm cho đạo Phật là mê tín dị đoan,
tiêu cực
bỏ quên trách nhiệm… Cũng vì si mê nghi ngờ
mà
chúng ta bỏ đi cơ hội làm Phật và chịu mọi đau khổ
trong
sáu ngã luân hồi không thể thoát ly. Sáu ngã luân
hồi đó
là: trời, người, thần, súc sanh, ngạ quỷ và địa
ngục
(luân hồi tức là đầu thai trở lại vô số kiếp).
Tuy ở đây chúng tôi nguyện dùng hết tâm can để
giải
bày nhưng khả năng và giấy mực cũng chỉ có giới
hạn,
xin quý bạn hãy đi tìm kinh điển của Phật để học
hỏi
thêm. Còn nếu quý bạn bận rộn không có thời gian
để
nghiên cứu Phật pháp mà muốn được vãng sanh
ngay
trong đời này thì quý bạn chỉ cần tin sâu niệm A
DI ĐÀ
Phật, vì câu A DI ĐÀ Phật là kim cang diệu
thiền tối
cao của Phật pháp, là chìa khóa mở cửa kho
tàng
chơn tâm của bạn. Kim cang: nghĩa là trực chỉ
chơn
tâm, thành tựu pháp thân kim cang bất hoại. Diệu
thiền:
nghĩa là trực chỉ Phật tánh Di Đà khai tri kiến
Phật,
thành tựu lục thông. Thật ra kho tàng thần thông
trí tuệ
đó không ở đâu xa, tất cả đều đã có sẵn ở trong
tự tâm,
chẳng qua chúng ta bị vô minh che lấp nên
không
thấy đó thôi. Chúng ta si mê điên đảo thật là
đáng
thương, thà làm kẻ ăn xin bần cùng chịu mọi đau
khổ đời
đời kiếp kiếp, chớ không chịu tin lời Phật dạy
trở về
chơn tâm để hưởng thụ kho tàng quý báu của
mình.
Giờ
chúng ta tìm hiểu vào phần chi tiết. Trước
khi bước
vào phần chi tiết chúng tôi xin nêu ra một câu
hỏi để
quý bạn tự trả lời. Tuy câu hỏi này rất là đơn
giản
nhưng đây là đầu mối có thể giúp quý bạn có cái
nhìn
khác hơn về đạo Phật.
Câu hỏi: Kính thưa quý bạn! Những giáo sư, bác
học ở
trên thế giới này họ đang dạy con người về
những sự
chuyển biến của vạn vật muôn loài hay là họ
đang dạy
con người về tôn giáo, mê tín dị đoan?
N ếu quý bạn trả lời rằng họ đang dạy con người
về những
sự tướng chuyển biến của xã hội học thì quý
bạn đã
hiểu được phần nào về đạo Phật rồi đó. Còn nếu
quý bạn
trả lời rằng họ đang dạy con người về tôn giáo
và mê
tín dị đoan thì thần kinh của quý bạn đã có vấn
đề rồi
đó. Tại sao? Vì những vị giáo sư, bác học đang
dạy con
người về những sự biến hóa của vạn vật muôn
loài ở
trên trái đất này, họ nào có dạy điều gì liên quan
đến tôn
giáo hay là mê tín dị đoan.
Kính thưa quý bạn! Đạo Phật cũng như vậy đó,
chư Phật
đến đây là dạy cho chúng ta hiểu biết về cái
chơn tướng
của vũ trụ, nhân sinh, đạo tâm và giải
thoát,
quý Ngài nào có dạy điều gì liên quan đến ban
phước
hay trừng phạt đâu mà chúng ta vội cho đạo Phật
là mê
tín dị đoan?
Những vị bác học ở trên trái đất này dù có tài
giỏi đến
đâu thì cũng chỉ hiểu được một phần sự tướng
giả tạm
của thế giới này thôi chớ không hiểu được hết.
Sự tướng
giả tạm của thế gian họ còn chưa hiểu thấu thì
nói chi
đến chơn tướng của tâm linh. Vì sao thế? Vì họ
cũng là
phàm phu si mê điên đảo, họ chỉ hơn chúng ta
ở chỗ
là có một chút thông minh và có nghiên cứu nên
mới biết.
Nhưng nếu đem cái thông minh và sự hiểu
biết của
họ so với chư Phật thì sự hiểu biết của họ
không bằng
hạt cát giữa sa mạc.
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện đến thế giới Ta
Bà này
gần ba ngàn năm trước, tu hành và thuyết pháp
hết 49
năm (Ta Bà là thế giới có đầy rẫy đau khổ và tộc ác).
Trong
49 năm thuyết pháp những gì Ngài nói đều
không
ra ngoài tâm của chúng sanh. Không chỉ riêng
Phật
Thích Ca mà ba đời mười phương chư Phật, chư
Bồ Tát
cũng cùng dạy một lý lẽ. Quý Ngài cùng có một
tâm
nguyện hoài bão giống nhau là giúp chúng sanh
giác ngộ
lìa mê, chuyển phàm thành Phật giống như
quý
Ngài. Quý Ngài xưa nay chưa hề tự đặt ra một môn
phái
hay một giáo lý riêng biệt nào để bắt buộc chúng
sanh phải
tôn thờ hay phục tùng.
Trong kinh Phật nói: “Nếu có chúng sanh nào
nói
kinh điển là do Phật tự thuyết thì sẽ oan ức cho chư
Phật ba
đời”. Đọc đến đây chúng ta không khỏi nghi
ngờ tự
hỏi: rõ ràng ba đại tạng kinh là do Phật Thích Ca
thuyết
mới có và còn tồn tại cho đến ngày hôm nay,
nhưng tại
sao Phật lại nói rằng: “Phật chưa hề thuyết,”
thật là
vô lý quá!
Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ: anh A có một
kho
vàng chôn ở trong nhà mà không hề hay biết, cam
tâm chịu
sống đau khổ bần cùng ăn xin khắp nơi. Anh
B thấy
anh A si mê tội nghiệp nên tới mách bảo cho
anh A
biết rằng anh A có kho vàng được chôn ở trong
nhà, vậy
những lời anh B nói với anh A là bịa đặt hay
là anh
B chỉ nói chơn tướng sự thật để cho anh A biết
mà
thôi?
Chư Phật
ba đời mười phương cũng như anh B
vậy đó,
quý Ngài đến đây chỉ là muốn nói cho chúng ta
biết tất
cả chúng sanh mọi loài hữu tình ở mười phương
thế giới
đều có chủng tử Phật tánh để thành Phật A DI
ĐÀ, chẳng
qua chúng ta không có đủ căn duyên, phước
lành để
tin lời Phật dạy đó thôi.
Giờ chúng tôi xin phân tích thêm để quý bạn
hiểu rõ
hơn tại sao Phật nói là Phật chưa hề thuyết.
Trong
49 năm thuyết pháp, những gì Phật nói đều
không
ngoài ba nguyên nhân chính. Một: vì có đệ tử
hỏi, Phật
trả lời. Hai: là khi gặp nhân duyên, Phật giải
thích.
Ba: là Phật tự thuyết để giúp chúng sanh thành
Phật. Ý
nghĩa tự thuyết ở đây không phải là Phật tự đặt
ra để
thuyết mà là Phật tự động nói ra cái chơn tướng bí
mật sẵn
có trong tâm của chúng sanh, cũng như anh B
tự động
tới nói cho anh A biết cái kho vàng mà anh A
đang
có.
Những bộ
kinh đại thừa mà Phật tự thuyết đó là:
Kinh
Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A DI
ĐÀ, vì
vậy ngay tựa đề của những bộ kinh này đều có
ghi hai
chữ “Phật thuyết”. Tức là không có ai hỏi mà
Phật tự
động thuyết. Tại sao thế? Vì ý nghĩa đại thừa là
cao
siêu thậm thâm vi diệu, chỉ có Phật mới hiểu được
Phật
thôi, còn chúng sanh si mê như chúng ta làm sao
biết mà
thưa hỏi, nên Phật phải tự động nói ra cái chơn
tướng sự
thật để cứu chúng sanh.
Tuy những bộ kinh đại thừa đều do Phật thuyết
mới có và
được tồn tại cho đến ngày hôm nay, nhưng
cũng
không phải do Phật tự đặt ra để thuyết. Vì sao
thế? Vì
những gì Phật Thích Ca thuyết, ba đời mười
phương
chư Phật đều thuyết giống nhau không khác,
quý
Ngài thị hiện đến đây chỉ nói lên cái chơn tướng sự
thật đã
có sẵn trong tâm chúng ta mà thôi.
Cuối cùng kinh điển của Phật không có Phật nào
thuyết
cả. Chúng tôi biết quý bạn sẽ hỏi: “Nếu không
có Phật
nào thuyết vậy tại sao lại gọi là kinh điển của
Phật?”.
Kính thưa quý bạn! Hai chữ “của Phật” ở đây
là nói
chung tất cả tâm Phật của chúng sanh, không
phải
nói của chư Phật. Nói cách khác cho dễ hiểu: là vì
chúng
sanh có tâm Phật nên mới có kinh Phật. Kinh
Phật là
thuộc về chúng sanh không phải thuộc về chư
Phật, tức
là nói vì có chúng sanh nên mới có kinh điển
của Phật,
cũng như vì có kho vàng của anh A mà câu
chuyện
của anh B mới được thành lập. Nếu anh A biết
rõ mình
có kho vàng thì anh B không có chuyện gì để
nói, thậm
chí danh từ anh B cũng không có.
Tóm lại, vì chúng sanh có tâm Phật mà không
biết
nên chư Phật mới thị hiện ra đời để dẫn dắt thuyết
pháp. Nếu
chúng sanh biết tâm Phật của mình ở đâu thì
chư Phật
không cần ra đời, thậm chí danh từ Phật cũng
không
có.
N ếu chúng sanh biết tâm Phật của mình ở đâu
thì
danh từ
chúng sanh cũng không có. Tại sao? Vì nếu
chúng
sanh biết tâm Phật ở đâu thì chúng sanh đã thành
Phật hết
rồi, còn ai để mà gọi là chúng sanh. Nếu danh
từ
chúng sanh không có thì làm gì có danh từ Phật, vì
vậy mà
Phật nói rằng: “Phật chưa hề thuyết”. Tuy chư
Phật
chưa hề thuyết nhưng tất cả chư Phật đều thuyết,
không
những tất cả chư Phật đều thuyết mà tất cả
chúng
sanh đều có thể thuyết. Tại sao? Vì khi thành
Phật
chúng ta lại đem cái chơn tướng sự thật này chỉ
dạy cho
chúng sanh đời sau, rồi cứ như vậy mà tiếp nối
dạy
nhau không cùng tận. Tóm lại, trên sự thì tất cả
kinh điển
đều do chư Phật thuyết mới có, nhưng trên lý
thì chư
Phật chưa hề thuyết, vì chữ thuyết ở đây là từ
nơi
chúng sanh mà có không phải từ nơi chư Phật.
Giờ
chúng ta mới hiểu danh từ “kinh điển của
Phật”
là từ nơi chúng ta mà có và hai chữ “đạo Phật”
cũng từ
nơi chúng ta mà ra, không có gì là thuộc về sở
hữu của
chư Phật cả. Nếu hai chữ “đạo Phật” là nói về
đạo tâm
và Phật tánh của ta thì vấn đề làm Phật, Tiên,
Người,
Thần, Súc sanh, Ngạ quỷ, địa ngục đều tự ta
quyết định.
Nếu ta là người có quyền điều khiển vận
mạng của
ta thì đâu còn ai có quyền ban phước lành
hay trừng
phạt mà chỉ tự ta ban phước và trừng phạt ta
thôi.
Chư Phật thương chúng ta vô bờ bến, quý Ngài
không
những đến đây chỉ dạy cho chúng ta biết cái
chơn tướng
sự thật mà còn chỉ dạy cặn kẽ tường tận
nhiều
phương pháp tu hành khác nhau, để giúp cho ta
tùy
theo căn cơ, hoàn cảnh, thời thế mà tự chọn cho
mình một
môn tu thích hợp. Phật dạy cho chúng ta tám
vạn bốn
ngàn pháp môn để đối trị với tám vạn bốn
ngàn
phiền não đau khổ. Ngoài tám vạn bốn ngàn pháp
môn ra,
Ngài còn từ bi chỉ dạy cho ta một pháp môn
Tịnh Độ
kim cang diệu thiền thẳng tắt dễ tu, dễ chứng
và được
vãng sanh ngay trong một đời (vãng sanh đồng
nghĩa với
thành Phật).
Ý nghĩa tin Phật:
Đa số chúng ta vẫn còn hiểu lầm cho rằng ai
tin
Phật
thì sẽ được Phật cứu, còn ai không tin Phật thì sẽ
không
được Phật cứu. Thậm chí, chúng ta còn cho rằng
Phật là
một đấng có quyền năng trừng phạt hay ban
phước
lành. Thật ra Phật không ban phước lành hay là
trừng
phạt ai cả, Ngài chỉ dạy cho chúng ta một con
đường để
đi làm Phật mà thôi. Nếu chúng ta tin lời Phật
dạy,
tinh tấn tu hành thì Ngài sẽ luôn luôn phóng
quang
trợ lực cho chúng ta. Phật đã làm hết sức của
Ngài rồi
còn chịu làm Phật hay không là do ta tự quyết
định.
Còn ý nghĩa tin Phật sẽ được cứu ở đây là nói:
nếu ta
tin lời Phật dạy, buông xả tham, sân, si, lo tu
hành
thì sẽ được thành Phật, như vậy là ta tự cứu ta rồi.
Ý nghĩa
không tin Phật sẽ bị đọa ở đây, là nói nếu ta
không
tin lời Phật dạy, không tin có quả báo luân hồi,
không
lo tu hành mà cứ lo tạo tác ác nghiệp thì sẽ bị
đọa,
như vậy là tự ta đọa ta rồi. Trong nhà Phật thường
có một
câu nói “ai tu nấy chứng ai tội nấy mang”,
cũng
như chúng ta ai ăn thì no, ai không ăn thì đói,
không
ai có thể ăn thế cho ai hoặc chịu đói dùm cho ai.
Thờ cúng chư Phật:
Kính thưa quý bạn! Chư Phật không hề bắt buộc
chúng
ta phục tùng hay bái lạy. Nhưng chỉ vì mang ơn
và tưởng
nhớ chư Phật nên chúng ta mới lập bàn thờ,
đúc tượng
để lễ lạy chiêm ngưỡng. Cũng như chúng ta
mang ơn
tổ tiên, ông bà, cha mẹ nên mới lập bàn thờ để
lễ lạy
và tưởng nhớ. Ý nghĩa thờ cúng là để chiêm
ngưỡng
noi gương, không phải để van xin phù hộ.
Chúng
ta xưa nay thường dùng tà tri, tà kiến rồi hiểu
lầm cho
rằng thờ cúng thì sẽ được phước, làm ăn phát
tài.
Cũng vì những sự si mê điên đảo này mà chúng ta
đã tạo
nên những cảnh tượng mê tín, cúng tế trời, đất,
quỷ, thần…
Chúng ta si mê điên đảo mà không biết,
ngược lại
còn hiểu lầm cho đạo Phật là đạo tiêu cực mê
tín dị
đoan, thử hỏi tội lỗi này chúng ta gánh có nổi
không?
Ai Là
Phật A DI ĐÀ?
Chúng ta xưa nay tưởng danh hiệu Phật A DI
ĐÀ là
danh tên của một vị Phật ở cõi Tây Phương Cực
Lạc, hoàn
toàn không liên quan gì đến chúng ta. Giờ
chúng
tôi xin mời quý bạn tìm hiểu vào danh hiệu A DI
ĐÀ Phật
để coi có liên quan gì đến chúng ta hay
không.
Phật:
nghĩa là giác. Giác: nghĩa là trí tuệ sáng
suốt sẵn
có của tất cả chúng sanh mọi loài ở trong vũ
trụ
này. Bất luận bạn thuộc đạo hay tôn giáo nào, bất
luận bạn
thuộc chủng tộc nào, bất luận bạn là Phật,
Trời,
Người, Thần, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục thì
tất cả
chúng ta đều có cùng Phật trí sáng suốt giống
nhau.
Không phải chúng ta đạo Phật thì mới có Phật trí
sáng suốt,
còn những người thuộc đạo hay tôn giáo
khác
thì không có Phật trí sáng suốt.
Tuy
loài người ở trên trái đất này có nhiều chủng
tộc và
tôn giáo khác nhau, nhưng Phật trí sáng suốt của
chúng
ta thì không khác nhau. Tuy chúng ta ai cũng có
Phật
trí sáng suốt nhưng không biết dùng, ngược lại
còn xa
lánh Phật trí sáng suốt của mình, nên mới bị trôi
lăn
trong sáu ngã luân hồi không thể thoát ly.
A DI ĐÀ:
là danh tên tánh đức sẵn có của tất cả
chúng
sanh mọi loài ở trong vũ trụ này, còn danh tên
mà
chúng ta đang có chỉ là giả tạm do người đời đặt ra
để tiện
việc phân biệt anh A hay anh B mà thôi. A DI
ĐÀ: là
thể tánh giác, chánh, tịnh sẵn có trong tâm của
tất cả
chúng sanh. Giác: là trí tuệ sáng suốt. Chánh: là
thấy,
nghe, nghĩ, hành động, lời nói đúng. Tịnh: là
thanh tịnh
tịch diệt. Tóm lại, danh hiệu A DI ĐÀ chính
là danh
hiệu tánh đức sẵn có vĩnh cửu của ta, còn danh
tên hiện
tại chỉ dùng để gọi tạm trong một đời, sau khi
chết mọi
thứ đều trở thành cát bụi, thân ta cũng vậy.
Chúng
ta si mê thật là đáng thương xưa nay cứ
ôm cái
danh tên giả tạm mà cho là thật, vì tưởng là thật
nên
tranh chấp hơn thua hãm hại lẫn nhau không
ngừng,
thậm chí vì cái tên giả tạm này mà rơi vào tù
tội,
khi chết còn bị đọa vào ba đường ác. Còn A DI ĐÀ
là Phật
tánh sáng suốt sẵn có của mình mà không hề
hay biết,
vậy thử hỏi có đáng thương không?
Tuy
chúng ta ai cũng có sẵn Phật tánh A DI ĐÀ,
nhưng
chưa phải là Phật A DI ĐÀ. Tại sao? Vì chúng
ta chưa
chịu trở về để làm Phật A DI ĐÀ. Muốn làm
Phật A
DI ĐÀ thì chúng ta phải tu niệm tự tánh A DI
ĐÀ của
mình từ bây giờ cho tới phút lâm chung thì sẽ
được
vãng sanh thành Phật (vãng sanh đồng nghĩa với thành
Phật).
Tóm lại,
Phật A DI ĐÀ là danh hiệu của đấng từ
phụ A
DI ĐÀ đang ngự ở cõi Cực Lạc. Phật A DI ĐÀ
cũng là
danh hiệu tánh đức của mười phương chư Phật.
Phật A
DI ĐÀ cũng là danh hiệu tánh đức của tất cả
chúng
sanh mọi loài ở mười phương thế giới (tức bao
gồm
luôn ta).
Qua sự
phân tích ở trên cho thấy chúng ta cũng
có sẵn
Phật tánh A DI ĐÀ, chẳng qua ta không chịu trở
về để
làm Phật A DI ĐÀ đó thôi. Xin quý bạn hãy mau
thức tỉnh,
vì không có gì đáng thương bằng tự mình
ruồng bỏ
trí tuệ sáng suốt của mình.
21
Phật A
DI ĐÀ Là Ai?
Kính thưa quý bạn! Chúng ta đang tu pháp môn
Tịnh Độ
để sanh về Cõi Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ thì
cần phải
hiểu rõ Phật A DI ĐÀ là ai, để ta không còn
nghi ngờ
thoái chuyển. Có rất nhiều người trong chúng
ta vẫn
còn mập mờ không hiểu Phật A DI ĐÀ là ai và
cõi Cực
Lạc đang ở đâu. Chúng ta nghi ngờ là vì chưa
hiểu được
chơn tướng của sự thật.
Giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu tóm lược vào
những
đoạn kinh quan trọng trong lúc Phật Thích Ca
giới
thiệu và tán thán công đức hạnh nguyện độ tha của
Phật A
DI ĐÀ ở trong pháp hội “Kinh Vô Lượng
Thọ”.
“Có một thời, Phật (tức là Phật Thích Ca) thuyết
pháp ở
thành Vương Xá Lợi trong núi Kỳ Xà Quật,
trong
pháp hội lúc đó có mười hai ngàn đại Bồ Tát và
đại
Thánh đều đã có thần thông trí tuệ như là: ngài
Kiều Trần
Như, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên,
Ca Diếp,
A Nan… Những vị đại Bồ Tát làm thượng
thủ như
là: ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát,
Di Lặc
Bồ Tát và hết thượng chư Bồ Tát trong quá khứ
đều đến
dự trong pháp hội này. Ngoài 12 ngàn đại Bồ
Tát và
đại Thánh ra, còn có vô lượng Bồ Tát, Tứ chúng
đệ tử
Phật và chư Thiên cũng đều tới trong đại hội để
nghe Phật
thuyết pháp. Lúc đó, oai quang sắc tướng
của Phật
tự nhiên rạng rỡ hào quang sáng ngời. Ngài A
Nan trông
thấy dung nhan của Phật hôm đó đẹp đẽ lạ
thường,
chưa từng thấy qua, nên nghĩ thầm: “chắc Phật
đang
giao du được với mười phương chư Phật hay là
Phật có
pháp vi diệu muốn thuyết”. Vì vậy Ngài vội
đứng dậy
đi tới trước Phật cúi đầu đãnh lễ, thỉnh xin
Phật
nói pháp. Phật khen Ngài A Nan thỉnh hỏi rất hay,
vì câu hỏi
của Ngài A Nan hôm nay sẽ cứu được vô
lượng
chúng sanh hữu tình trong đời tương lai.
Sau đó, Phật bảo Ngài A Nan cùng chư Bồ Tát,
Thánh
chúng ở trong pháp hội hãy nghe kỹ những lời
Phật sắp
nói để sau này truyền lại cho tất cả chúng sanh
hữu
tình trong mười phương thế giới.
Phật nói: “Trong vô lượng kiếp quá khứ không
thể
tính đếm, có một vị Phật xuất thế hiệu là Thế Gian
Tự Tại
Vương Như Lai, nói kinh thuyết pháp cho chư
Thiên
và người đời nghe. Lúc đó, có một vị Quốc
Vương
tên là Nhiêu Vương sau khi nghe Phật thuyết
pháp
thì liền giác ngộ, hoan hỷ buông xả ngai vàng,
xuất
gia tu Bồ Tát hạnh và lấy hiệu là Pháp Tạng Tỳ
kheo.
Ngài Pháp Tạng có lòng từ bi, trí tuệ và đạo hạnh
rất cao
không ai sánh bằng, vì muốn cứu hết chúng
sanh hữu
tình trong mười phương thế giới nên Ngài
phát đại
nguyện muốn xây một cõi Phật Tịnh Thổ Thù
Thắng
cao siêu vượt hơn mười phương cõi Phật, vì vậy
Ngài đến
thỉnh xin Phật Tự Tại Vương giảng nói cho
Ngài
nghe tường tận về hoàn cảnh thanh tịnh của mười
phương
cõi Phật, để Ngài tự lựa chọn những điều thanh
tịnh
cao siêu nhất hầu trang nghiêm cho cõi Tịnh Thổ
của
Ngài. Sau khi Phật Tự Tại Vương nghe Ngài Pháp
Tạng thỉnh
xin xong thì vô cùng hoan hỷ nên liền diễn
nói và
thị hiện cho Ngài Pháp Tạng thấy tường tận
hoàn cảnh
thanh tịnh của 210 ức cõi Phật. Thời thuyết
pháp
đó, Phật Tự Tại Vương đã giảng nói hết một ngàn
ức năm.
Sau một ngàn ức năm tìm hiểu, Ngài Pháp
Tạng lại
dùng hết năm kiếp tu tập để thành tựu. Sau khi
thành tựu,
Ngài Pháp Tạng đến thưa với Phật Tự Tại
Vương rằng
Ngài đã thành tựu xong hạnh nguyện của
Ngài.
Phật khen và khuyên Ngài Pháp Tạng hãy tuyên
dương đại
nguyện cho đại chúng ở khắp mười phương
nghe để
đại chúng hoan hỷ mà phát nguyện sanh về cõi
nước của
Ngài. Sau đó, Ngài Pháp Tạng quỳ trước mặt
Phật Tự
Tại Vương mà phát ra 48 đại nguyện (xin quý
bạn hãy
tìm Kinh Vô Lượng Thọ để tìm hiểu 48 đại nguyện của
Ngài vì
48 đại nguyện rất dài không thể nêu ra ở đây).
Sau khi Ngài Pháp Tạng phát ra 48 đại nguyện
xong
thì trời đất chấn động, mưa hoa từ trên trời rơi
xuống
phủ lên thân Ngài và nhạc trời trỗi lên đồng
thanh
tán thán rằng: “Ngài Pháp Tạng nhất định sẽ
thành
Phật!” (Hết phần tóm lược tu nhân của Ngài Pháp
Tạng).
Giờ chúng ta tìm hiểu vào đoạn kinh lúc Phật
Thích Ca
nói về sự thành tựu của Ngài Pháp Tạng như
thế nào
(tức nói về sự thành tựu của Phật A DI ĐÀ).
Sau khi Ngài A Nan và đại chúng nghe Phật giới
thiệu
và tán thán về đức hạnh tu hành độ tha của Ngài
Pháp Tạng
xong thì Ngài A Nan liền thưa hỏi Phật
rằng:
“Ngài Pháp Tạng là Phật trong quá khứ, là Phật ở
vị lai
hay là Phật đang ở thế giới khác?”
Chánh
kinh:
Phật bảo
rằng: “Đức Như Lai ấy (tức là nói Phật
A DI
ĐÀ) không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, vô sanh
vô diệt,
cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại hay vị lai,
chỉ vì
đáp tạ cái nguyện độ sanh nên Ngài hiện ở
Tây
Phương cách Diêm phù Đề trăm ngàn câu ni
chi na
do tha cõi Phật (tức là cách cõi Ta Bà của chúng ta
là mười
vạn ức Phật độ) có một thế giới tên là Cực Lạc.
Pháp Tạng
thành Phật hiệu là A DI ĐÀ. Từ khi
Ngài
thành Phật đến nay đã là mười kiếp. Nay Ngài
đang
thuyết pháp có vô lượng Bồ Tát và Thanh Văn
chúng
đang cung kính vây quanh”. (Chữ kiếp ở đây là
đại đại
kiếp, tức là vô lượng kiếp không thể tính đếm. Chữ kiếp
có nhiều
ý nghĩa dài ngắn biến hóa, xin quý bạn không nên chấp chặt vào từ ngữ. Đoạn
kinh này rất là quan trọng, nếu quý bạn tìm hiểu kỹ thì sẽ thấy mỗi chữ đều có
sự biến hóa vô lượng không thể nghĩ bàn).
Sau khi Phật Thích Ca tán thán công đức, hạnh
nguyện
độ tha của Phật A DI ĐÀ và diễn tả cảnh đẹp
bảy báu
trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc xong
thì Phật
khuyên Ngài A Nan cùng hàng đệ tử và tất cả
đại Bồ
Tát đang có mặt trong pháp hội, hãy dẫn dắt
chúng
sanh hữu tình trong đời tương lai tu hành niệm
Phật để
sanh về cõi Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ. Sau
khi
khuyên dạy đại chúng xong Phật liền dùng thần
thông
thị hiện cảnh Tây Phương Cực Lạc cho đại
chúng
thấy để giúp đại chúng có thêm lòng tin với Phật
A DI
ĐÀ. Ngay lúc đó, Phật A DI ĐÀ cũng hiện thân
đến nơi
để làm chứng tín cho đại chúng và đồng thời
cũng
làm chứng cho những lời của Phật Thích Ca
thuyết
là vạn lần chân thật. Hai Ngài làm như vậy là để
giúp đại
chúng lúc đó và tương lai có thêm lòng tin
kiên định
với Phật A Di Đà. Sau khi Phật Thích Ca
thuyết
pháp xong thì trên không trung liền có mưa hoa
rơi xuống,
âm nhạc trỗi lên, mười phương chư Phật,
chư Bồ
Tát và Thánh chúng đồng thanh tán thán nói
rằng:
“Phật Thích Ca là Phật có tài đức và lòng từ bi vô
lượng,
vì ở trong thế giới Ta Bà chúng sanh tội ác cang
cường,
si mê điên đảo mà có thể thuyết được pháp vi
diệu
khó tin của Như Lai thì thật là không dễ.” (Vì pháp
môn Tịnh
Độ chỉ có Phật mới hiểu được Phật thôi, còn chúng
sanh si
mê điên đảo nghiệp chướng sâu dày như chúng ta không dễ gì hiểu được, nhưng vì
muốn cứu hết chúng sanh nên Phật Thích Ca mới nói ra). Sau khi nghe Phật thuyết
Kinh Vô Lượng Thọ xong thì có vô lượng chư Bồ Tát Thánh chúng ở mười phương đồng
phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ.
Kính thưa quý bạn! Nếu chúng ta dùng con mắt
phàm
phu để tìm hiểu kinh điển của Phật thì sẽ nghĩ
rằng:
Ngài Pháp Tạng lúc tu nhân chỉ là một vị quốc
vương
(tức người thường), sau khi nghe Phật Tự Tại
Vương
thuyết pháp thì được giác ngộ, buông xả ngai
vàng,
xuất gia tu Bồ Tát hạnh, lấy hiệu là Pháp Tạng,
phát ra
48 đại nguyện, thành tựu Phật quả và xây cõi
Cực Lạc
lấy hiệu là Phật A DI ĐÀ.
C ũng như chúng ta tưởng Phật Thích Ca gần ba
ngàn
năm trước chỉ là một vị hoàng tử Tất Đạt Đa (tức
người
thường), sau khi đi du ngoạn ngoài bốn cửa thành
Ngài vô
tình thấy được cảnh khổ, bệnh, già, chết mà
được
giác ngộ. Sau đó Ngài từ bỏ ngai vàng, cha mẹ và
vợ con
để xuất gia tầm sư học đạo rồi trải qua sáu năm
tu hành
khổ hạnh, cuối cùng Ngài ngồi thiền định ở
dưới cội
Bồ Đề mà đắc quả thành Phật và thuyết pháp
độ sanh
hết 49 năm.
Chúng ta là phàm phu nên chỉ thấy như vậy,
trên
thực tế
quý Ngài đều đã thành Phật trong vô lượng kiếp
lâu xa
rồi, không phải chỉ mới thành Phật đây. Chắc có
lẽ quý
bạn sẽ hỏi: vậy tại sao quý Ngài không thị hiện
đến đây
bằng thân kim Phật, có đầy đủ thần thông biến
hóa,
hào quang rực rỡ, mà quý Ngài lại thị hiện đến đây
bằng
thân người có sanh, lão, bệnh, chết giống như
chúng
ta?
Kính
thưa quý bạn! Vì quý Ngài thấy tất cả
chúng
sanh đều có chủng tử Phật tánh Di Đà, đều có
khả
năng thành Phật giống như quý Ngài. Nếu quý
Ngài thị
hiện đến đây bằng thân kim Phật thì chúng ta
sẽ nghĩ
rằng: chỉ có chư Phật mới có đủ trí tuệ để tu
thành
Phật, còn chúng ta làm sao có trí tuệ để tu thành
Phật giống
như quý Ngài, rồi từ chỗ nghi ngờ đó mà
chúng
ta không chịu buông xả tu hành. Nếu chúng ta
không
chịu buông xả tu hành thì Phật làm sao cứu được
chúng
ta? Vì vậy mà quý Ngài phải thị hiện bằng thân
người
cũng có cha mẹ, vợ con, giác ngộ, phát nguyện,
tu
hành, độ tha, thành tựu Phật quả, để giúp chúng ta có
tự tin
tu hành thành Phật. Các Ngài không phải chỉ thị
hiện
thân người để cứu chúng ta thôi đâu mà các Ngài
còn thị
hiện thân súc sanh để độ súc sanh, hiện thân
ngạ quỷ
để độ ngạ quỷ, hiện thân địa ngục để độ địa
ngục.
Giờ chúng ta trở lại tìm hiểu những phần quan
trọng
trong tiến trình tu nhân và thành Phật của Ngài
Pháp Tạng
(tức Phật A DI ĐÀ) để xem Ngài lúc đó chỉ là
người
thường hay là cổ Phật tái lai. Vì sự tìm hiểu này
rất là
quan trọng, nếu chúng ta chưa tìm hiểu rõ ràng
mà vội
đi nghi ngờ phỉ báng thì chỉ hại mình bị đọa địa
ngục mà
thôi.
1. Nếu
Ngài Pháp Tạng lúc đó chỉ là người thường
mới được
giác ngộ tu Bồ Tát hạnh thì Ngài làm sao có
đủ trí
tuệ, đạo hạnh để thỉnh Phật Tự Tại Vương diễn
nói cho
Ngài nghe hết hoàn cảnh thanh tịnh của mười
phương
cõi Phật, để Ngài lựa chọn những điều thanh
tịnh
cao siêu nhất thành tựu cho cõi Phật của Ngài?
2. Nếu
Ngài là người thường thì Ngài làm sao có đủ
đạo hạnh
và can đảm quỳ ở trước mặt Phật Tự Tại
Vương
mà tuyên thệ rằng: nếu Ngài không xây dựng
được
cõi Tịnh Thổ (tức Cực Lạc) vượt trội hơn mười
phương
cõi Phật thì Ngài thề không thành Phật? (Ngài
muốn
xây thù thắng hơn để cứu chúng sanh, không phải là để hơn thua, xin quý bạn chớ
có hiểu lầm).
3. Nếu
Ngài là người thường thì Phật Tự Tại
Vương cần
gì phải dùng hết một ngàn ức năm để diễn
nói và
thị hiện cảnh 210 ức cõi Phật cho Ngài suy nghĩ
lựa chọn?
(thật ra hai Ngài chỉ đóng kịch để hoàn thành câu chuyện độ sanh mà thôi).
4. Nếu
Ngài Pháp Tạng là người thường thì làm sao
có đủ
trí tuệ đạo hạnh để phát ra 48 đại nguyện, trong
khi 48
đại nguyện đó là chơn tướng diệu đức sẵn có
trong
diệu tâm của mười phương chư Phật và chúng
sanh?
5. Nếu
Ngài là người thường vậy tại sao sau khi
Ngài
phát ra 48 đại nguyện thì trời đất liền chấn động,
mưa hoa
rơi xuống, âm nhạc trỗi lên và mười phương
chư Phật,
chư Bồ Tát, Thánh chúng đều đồng thanh tán
thán rằng:
“Ngài Pháp Tạng nhất định sẽ thành Phật!”?
(thật
ra mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, thánh chúng lúc đó cũng chỉ là đóng kịch để
giúp chúng sanh có vững lòng tin thôi).
6. Nếu
Ngài Pháp Tạng chỉ mới thành Phật A DI
ĐÀ
trong mười kiếp thì tại sao ba đời mười phương
chư Phật,
chư Bồ Tát đều tán thán và tôn danh Ngài là
Phật
Trung Chi Vương? (chữ mười kiếp cũng chỉ là phương tiện để giúp chúng sanh hiểu
được khoảng cách của thời gian thôi. Trên thực tế cõi Cực Lạc đã thành tựu
trong vô lượng kiếp rồi).
7. Nếu
Ngài chỉ mới thành Phật A DI ĐÀ trong
mười kiếp
thì Ngài làm sao có đủ đạo hạnh để cho hai
vị đại
Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ở hai bên
phải -
trái của Ngài đi tiếp dẫn chúng sanh ở mười
phương
thế giới về Tây Phương Cực Lạc? (Bồ Tát Quán
Thế Âm
và Đại Thế Chí là hai vị cổ Phật đã thành Phật trong vô lượng kiếp lâu xa rồi).
8. Nếu
Ngài là Phật A DI ĐÀ mới thành thì tại sao
ba đời
mười phương chư Phật, chư Bồ Tát đều khuyên
dạy
chúng sanh nên phát nguyện sanh về cõi Cực Lạc
của Phật
A DI ĐÀ?
9. Nếu
Ngài là Phật mới thành thì Ngài làm sao có
đủ đạo
hạnh lấy danh hiệu A DI ĐÀ để đại diện cho cõi
nước của
Ngài? Quý bạn nên biết rằng danh hiệu A DI
ĐÀ chỉ
có Phật Tổ Tỳ Lô Giá Na mới có đủ đạo hạnh
để đại
diện mà thôi. Vì sao thế? Vì đây là danh hiệu
tánh đức
A DI ĐÀ của mười phương chư Phật và mười
phương
thế giới chúng sanh (Phật A DI ĐÀ tức là Phật Tổ
Tỳ Lô
Giá Na đấy).
Nếu nói
đến cảnh giới của chư Phật thì phàm phu
si mê
như chúng ta không cách chi nghĩ đến hay bàn
luận được,
nhưng nhờ có ba đại tạng kinh của Phật mà
chúng ta
mới hiểu được phần nào cảnh giới của chư
Phật.
Dù chúng ta có đủ trí tuệ hiểu thông được ba đại
tạng
kinh mà Phật dạy ở thế giới Ta Bà này thì cũng chỉ
mới hiểu
được có một chút - như hạt cát giữa sa mạc
thôi.
Vì sao thế? Vì ba đại tạng kinh của Phật để lại
trên thế
gian này so với đại tạng kinh ở trên cõi Phật thì
chỉ là
giọt nước ở trong biển, chỉ khi nào thành Phật thì
chúng
ta mới hiểu được hết cảnh giới của chư Phật (Đại
tạng
kinh trên cõi Phật ở đây là nói với chúng ta không phải nói với chư Phật, vì
chư Phật không có kinh điển chi cả, xin quý bạn chớ hiểu lầm mà sanh ra tranh
chấp từ ngữ).
N ếu chúng ta chịu để ý nghiên cứu kỹ kinh Phật
thì sẽ
thấy Ngài Pháp Tạng chính là Phật Tổ Tỳ Lô Giá
Na thị
hiện tái lai. Ngài là Phật Tổ cả hai cõi Hoa Tạng
thế giới
và Cực Lạc thế giới. Danh hiệu Tỳ Lô Giá Na
cũng chỉ
là danh hiệu để cho chúng sanh dễ hiểu, dễ
phân biệt
thôi. Trên thực tế Ngài đã có vô lượng, vô
biên
danh hiệu khác nhau không thể tính đếm. Không
phải chỉ
có Ngài mới có vô lượng danh hiệu khác nhau
mà tất
cả chư Phật, chư Bồ Tát ba đời mười phương
cũng đều
có vô lượng danh hiệu khác nhau. Vì sao thế?
Vì mỗi
một nơi quý Ngài thị hiện làm Phật hay hóa
thân cứu
độ chúng sanh thì quý Ngài đều lấy danh hiệu
khác
nhau để giúp chúng sanh dễ phân biệt. Đó là nói
trên sự,
còn trên lý thì quý Ngài không có một danh
hiệu
nào cả, thậm chí danh hiệu A DI ĐÀ cũng không
có. Tại
sao? Vì danh hiệu của chư Phật là bất lập ngôn
từ.
Giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu tại sao Phật Tổ
Tỳ Lô
Giá Na lại phải thị hiện làm Ngài Pháp Tạng
phát ra
48 đại nguyện, thành lập cõi Tây Phương Cực
Lạc và
lấy hiệu là Phật A DI ĐÀ.
Vì Phật Tổ thấy chúng sanh ở mười phương thế
giới si
mê, nghiệp chướng sâu dày khó tự tu để thoát
khỏi
luân hồi sanh tử, nên Ngài mới dùng hết thần lực
của
Ngài tu trong vô lượng kiếp để xây dựng một cõi
Cực Lạc
cao siêu thù thắng, hầu giúp chúng sanh đới
nghiệp
vãng sanh. Nhưng nếu Ngài âm thầm xây dựng
cõi Cực
Lạc thì chúng sanh làm sao biết ở Hoa Tạng
thế giới
có một cõi Cực Lạc cao siêu thù thắng giúp
chúng
sanh đới nghiệp vãng sanh (Đới nghiệp nghĩa là đem theo nghiệp tội của mình để
sanh về cực lạc), làm sao biết có Phật A DI ĐÀ luôn luôn phóng quang trợ lực,
tiếp dẫn và dạy dỗ chúng sanh tu thành Phật. Nếu chúng sanh
không
biết thì Ngài làm sao cứu được chúng sanh, làm
sao thỏa
được cái nguyện độ tha của Ngài? Vì vậy mà
Ngài phải
thị hiện làm Ngài Pháp Tạng để tạo nên câu
chuyện
độ tha của Phật A DI ĐÀ. Nhờ có câu chuyện
độ tha
của Phật A DI ĐÀ mà ba đời mười phương chư
Phật,
chư Bồ Tát mới giới thiệu để cứu chúng sanh mọi
loài.
T ại sao Phật Tổ không lấy danh hiệu khác mà
phải lấy
danh hiệu A DI ĐÀ và còn khuyên chúng sanh
hãy niệm
danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài đến nơi
tiếp dẫn
sanh về Cực Lạc? (Khi viết đến đoạn này tôi vô
cùng
xúc động không thể viết tiếp. Tại sao? Vì mỗi khi cầm bút lên thì nước mắt của
tôi cứ tuôn chảy mãi, dù tôi có bị tan xương nát thịt đến vô lượng kiếp cũng
không sao đền được ân đức cao sâu của Phật A DI ĐÀ, chư Phật và chư Bồ Tát).
Kính thưa quý bạn! Vì tất cả chúng ta mà Phật
Tổ mới
xây dựng cõi Cực Lạc và lấy hiệu là Phật A DI
ĐÀ. Tại
sao? Vì Phật Tổ thấy tất cả chúng sanh đều có
sẵn Phật
tánh A DI ĐÀ, chẳng qua chúng sanh si mê
điên đảo
chạy theo dục vọng, bỏ quên Phật tánh không
biết
quay về. Vì muốn cứu hết thảy chúng sanh nên
Ngài lấy
tánh đức A DI ĐÀ sẵn có của chúng sanh để
đại diện
cho Ngài, rồi sau đó khuyên dụ chúng sanh
hãy niệm
danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài đến nơi
tiếp dẫn
đưa về Cực Lạc để tu thành Phật, đây là khổ
tâm và
dụng ý của Ngài.
T ại sao Phật không nói cho chúng ta biết rõ sự
thật mà
Ngài phải dùng phương tiện để cứu chúng ta?
Vì Ngài
biết dù có nói chúng sanh cũng không có đủ trí
tuệ để
hiểu suốt. Tại sao? Vì Phật tánh A DI ĐÀ của
chúng
sanh không có hình tướng, nếu không có hình
tướng
thì Phật làm sao có thể giải bày, nên chỉ còn cách
là lấy
danh hiệu tánh đức A DI ĐÀ sẵn có của chúng
sanh để
đại diện cho Ngài. Vì Ngài biết rõ chỉ cần
chúng
sanh tin sâu tu niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ
khai mở
được Phật tánh A DI ĐÀ, khi Phật tánh A DI
ĐÀ được
khai mở thì tự chúng sanh sẽ hiểu ra danh
hiệu A
DI ĐÀ chính là danh hiệu tánh đức sẵn có của
chúng
sanh. Ngài chỉ mong chúng sanh chịu niệm Phật
tánh A
DI ĐÀ thì Ngài mới truyền được thần lực của
Ngài
vào thân tâm chúng sanh. Còn nếu chúng sanh
không
chịu niệm Phật tánh A Di Đà, không chịu tiếp
nhận thần
lực ánh sáng của Ngài thì dù Ngài muốn cứu
cũng
không nổi. Cũng như Ngài đã đem thuyền chờ sẵn
ở ngoài
bến, nhưng chúng sanh không chịu cất bước để
leo lên
thuyền thì Ngài làm sao cứu được chúng sanh
thoát
khỏi biển lửa luân hồi sanh tử.
Còn 48
đại nguyện mà Phật phát thệ cũng không
phải tự
Ngài đặt ra mà tất cả những gì Ngài nói trong
48 đại
nguyện đó đều có sẵn trong tự tánh A DI ĐÀ
chúng
ta. Chúng ta chỉ cần tin sâu tu niệm tự tánh A DI
ĐÀ, khi
được vãng sanh thì sẽ có tất cả thần thông trí
tuệ như
trong 48 đại nguyện. Vì vậy mà Phật tuyên thệ
rằng:
“Nếu chúng sanh vãng sanh về cõi nước của ta
mà
không có đủ những gì như ta đã nói ở trong 48
đại
nguyện thì ta thề không làm Phật”. Thật ra không
phải đợi
đến khi vãng sanh chúng ta mới có thần thông
trí tuệ
mà ngay giây phút hiện tại cũng có thể khôi phục
được phần
nào tùy theo sự tu hành sâu, cạn của ta. Nếu
chúng
ta tu niệm ít thì sẽ khôi phục được thần thông trí
tuệ và
hạnh phúc an lạc ít, nếu chúng ta tu niệm nhiều
thì sẽ
khôi phục được thần thông trí tuệ và hạnh phúc
an lạc
nhiều. Tóm lại, tất cả đều do ta quyết định mà
thôi.
Kính
thưa quý bạn! Phật A DI ĐÀ phát ra 48 đại
nguyện
là đã phơi bày tất cả diệu đức sẵn có ở trong
tâm ta,
vậy mà xưa nay ta có mắt như mù không hay
biết gì
cả, ngược lại còn đi phỉ báng nghi ngờ. Giờ thức
tỉnh mới
thấy 48 đại nguyện của Phật A Di Đà chính là
cảnh giới
nhiệm màu sẵn có trong diệu tánh A DI ĐÀ
chúng
ta và Tây Phương Cực Lạc cũng vì chúng ta mà
Phật Tổ
mới xây dựng.
Nếu
chúng ta chịu quán xét tìm hiểu tiến trình độ
tha của
chư Phật, chư Bồ Tát từ xưa đến nay thì sẽ thấy
Phật
Thích Ca thị hiện đến đây gần ba ngàn năm trước
đóng
vai làm mẹ nhảy vào biển lửa để dẫn dắt chúng ta.
Còn Phật
A DI ĐÀ ở Tây Phương Cực Lạc đóng vai
làm cha
ngày đêm mỏi mắt mong chờ và tiếp dẫn các
con đưa
về Cực Lạc để tu thành Phật. Ngoài ra cha còn
phóng
quang tới mười phương thế giới Ta Bà mỗi giây
mỗi
phút để bảo vệ, trợ lực cho các con không bị vấp
ngã bởi
cạm bẫy của Ma Vương.
Ngoài mẹ
là Phật Thích Ca và cha là Phật A DI
ĐÀ,
chúng ta còn có hai đại sư tỷ có lòng từ bi vô tận
đó là:
Đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Hai
đại sư
tỷ có lòng từ bi vô tận này lúc nào cũng ở bên
cạnh để
trợ lực và dạy dỗ tiếp dẫn chúng ta. Ngoài cha
mẹ và
hai đại sư tỷ ra, chúng ta còn có vô lượng cha mẹ
và vô
lượng đại sư huynh, sư tỷ ở mười phương thế
giới mỗi
giây mỗi phút cũng đang trông chờ và phóng
quang
trợ lực để bảo vệ, vậy chúng ta còn tham đắm ở
trong
biển lửa luân hồi này để làm gì mà không mau đi
về Cực
Lạc để đoàn tựu với gia đình? (Xin quý bạn hãy
suy
nghĩ lại).
Xin quý
bạn hãy tìm bộ kinh “Vô Lượng Thọ
Thanh Tịnh
Bình Đẳng Giác Kinh” do Ngài Hạ Liên
Cư hội
tập và Ngài cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải để
tìm hiểu
thêm về Phật A DI ĐÀ, cõi Cực Lạc và tìm
hiểu về
chơn tướng nhiệm màu sẵn có ở trong tự tánh
Di Đà của
chúng ta. Đây là bộ kinh được hội tập và chú
giải
hoàn chỉnh nhất từ khi Phật nhập Niết Bàn. Bộ
kinh
này đang được Ngài pháp sư Tịnh Không cùng
các chư
Tăng, Ni trong và ngoài nước thuyết giảng
khắp
nơi. Xin quý bạn đừng bỏ qua cơ hội học bộ kinh
này, vì
chỉ có bộ kinh này mới giúp chúng ta vãng sanh
ngay
trong một đời và bộ kinh này cũng là thể tánh
chơn
tâm của mỗi chúng ta.
Chúng
ta hãy phát tâm ấn tống cuốn kinh “Vô
Lượng
Thọ” này cúng dường khắp nơi để giúp chư
Tăng,
Ni và Phật tử có thêm tài liệu quý báu nghiên
cứu tu
hành, vì đây là báu vật vô giá của thế gian.
Trước
kia, khi tôi nghe Ngài pháp sư Tịnh Không giới
thiệu:
“Bộ kinh Vô Lượng Thọ do Ngài Hạ Liên Cư
hội tập
và Ngài cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải là bộ
kinh
hoàn chỉnh nhất từ khi Phật nhập Niết Bàn”, trong
tâm tôi
vô cùng mong ước có được cuốn kinh này,
nhưng
vì bận rộn nhiều việc Phật sự nên chưa có thời
gian đi
tìm, phần tôi thắc mắc không biết bộ kinh này
có được
dịch sang tiếng Việt hay chưa. Không ngờ
những
điều mơ ước trong tâm tôi được chư Phật cảm
ứng, tự
nhiên có một người bạn đạo gọi phone tặng cho
tôi một
cuốn kinh Vô Lượng Thọ chú giải của Ngài
Hoàng
Niệm Tổ. Tôi vô cùng mừng rỡ, bỏ hết công
việc chạy
đến để thỉnh ngay. Sau khi thỉnh về tôi tập
trung
nghiên cứu, đọc tới đâu tôi xúc động tới đó vì
mỗi chữ
trong cuốn kinh này đều tỏa ra hào quang biến
hóa vô
lượng (Ngoài Phật thị hiện ra không ai có thể hội tập chú giải được hay như vậy,
thật đúng như lời của chư cổ đức tán thán). Cũng nhờ có Ngài Như Hòa ở Bửu
Quang Tự từ bi khổ công dịch sang tiếng Việt, nếu không chúng ta không biết đến
bao giờ mới có được bộ kinh quý báu này để tu học (bộ kinh này được Ngài Như
Hòa dịch sang tiếng Việt năm 2002).
Chúng
ta may mắn có bộ kinh quý báu này trong
tay thì
hãy phát tâm từ bi ấn tống để lưu thông khắp nơi
trong
và ngoài nước để mọi người đều được thấm
nhuần
trong mưa pháp và cùng được vãng sanh. Bộ
kinh
này đã có vài vị đọc và thâu vào băng đĩa đang ấn
tống khắp
nơi hoặc quý bạn có thể vào website
H
Uwww.dieuamdieungo.comU H thâu ra đĩa để ấn tống khắp
nơi (cuốn
kinh này dày khoảng 719 trang, nếu in ở Việt Nam thì
hơn
1000 trang).