Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Ngũ trùng huyền nghĩa (1)



NGŨ TRÙNG HUYỀN NGHĨA
(Năm tầng nghĩa huyền vi)

I.    THÍCH RÕ NGHĨA CÁI TÊN ĐỀ CỦA BỘ KINH.
Bộ kinh này dùng người nói ra kinh và người bị nói đến trong kinh để đặt thành cái tên đề của bộ kinh là “Phật thuyết A Di Đà kinh”. Chữ “Phật” ở đây nghĩa là gì?
Chữ “Phật” ấy là đức Giáo Chủ, người nói ra bộ kinh này, tức là đức Thích Ca Mâu Ni, Ngài theo sức mạnh của lời thề nguyện và lòng thương xót hết thảy, mà Ngài giáng sinh vào trong đời đầy cả năm uẩn độc ác. Ngài là người giác ngộ trước tiên, Ngài giác ngộ cho người sau cũng giác ngộ như Ngài; không có một pháp nào mà Ngài chẳng biết rõ, thấy rõ.
Chữ “thuyết” là Ngài vui lòng mà nói ra. Phật lấy việc cứu độ chúng sinh làm vui lòng nhất. Cơ hội chúng sinh được thành Phật đã đến rồi, nên Ngài mới nói cái phép tu rất khó tin này cho mà nghe, để cho chóng được giải thoát rốt ráo, cho nên Ngài rất vui lòng mà nói.
Chữ “A Di Đà” là tên của đức Đạo Sư ở quả đất bên kia, là người bị nói đến trong bộ kinh này, tức là đức A Di Đà người đã dùng 48 lời thệ nguyện để tiếp dẫn những chúng sinh có lòng tín, nguyện, niệm Phật cho sinh về thế giới Cực Lạc, được vĩnh viễn lên ngôi Bất Thoái.
Chữ “A Di Đà” là tiếng Phạn (Brahma) ở Ấn Độ, nguyên âm đọc là Amita, dịch nghĩa ra chữ Hán là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang, nghĩa là “sống lâu vô cùng, sáng suốt vô cùng”. Nhưng nói tóm lại thì Ngài còn có rất nhiều công đức đều là vô cùng, vô tận, vô lượng, vô biên, như là: trí tuệ, thần thông, đạo lực, y báo trang nghiêm, thuyết pháp, giáo hóa, tế độ v.v… cái gì cũng vô lượng, vô biên cả.
Chữ “kinh” thì tất cả những lời vàng do Phật nói ra đều là Kinh. Chữ “kinh” là phần Thông, đối với 5 chữ “Phật thuyết A Di Đà” ở trên là phần Biệt. Cả hai phần hợp lại mà thành ra cái tên của bộ kinh này. Mỗi bộ kinh phải có đủ ba phần: phần giáo, phần hình và phần lý; phần nào cũng có cả Thông và Biệt, muốn hiểu biết, xem bộ Thai Tạng sẽ rõ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét