NGŨ TRÙNG HUYỀN NGHĨA
(Năm tầng nghĩa huyền vi)
I.
THÍCH RÕ NGHĨA
CÁI TÊN ĐỀ CỦA BỘ KINH.
Bộ kinh này dùng người nói ra kinh và người bị nói
đến trong kinh để đặt thành cái tên đề của bộ kinh là “Phật thuyết A Di Đà
kinh”. Chữ “Phật” ở đây nghĩa là gì?
Chữ “Phật” ấy là đức Giáo Chủ, người nói ra bộ kinh này, tức
là đức Thích Ca Mâu Ni, Ngài theo sức mạnh của
lời thề nguyện và lòng thương xót hết thảy, mà Ngài giáng sinh vào trong đời
đầy cả năm uẩn độc ác. Ngài là người giác ngộ trước tiên, Ngài giác ngộ cho
người sau cũng giác ngộ như Ngài; không có một pháp nào mà Ngài chẳng biết rõ,
thấy rõ.
Chữ “thuyết” là Ngài vui lòng mà nói ra. Phật lấy
việc cứu độ chúng sinh làm vui lòng nhất. Cơ hội chúng sinh được thành Phật đã
đến rồi, nên Ngài mới nói cái phép tu rất khó tin này cho mà nghe, để cho chóng
được giải thoát rốt ráo, cho nên Ngài rất vui lòng mà nói.
Chữ “A Di Đà” là tên của đức Đạo Sư ở quả đất bên
kia, là người bị nói đến trong bộ kinh này, tức là đức A Di Đà người đã dùng 48 lời thệ nguyện
để tiếp dẫn những chúng sinh có lòng tín, nguyện, niệm Phật cho sinh về thế
giới Cực Lạc, được vĩnh viễn lên ngôi Bất Thoái.
Chữ “A Di Đà” là tiếng Phạn (Brahma) ở Ấn Độ, nguyên
âm đọc là Amita, dịch nghĩa ra chữ Hán là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang, nghĩa
là “sống lâu vô cùng, sáng suốt vô cùng”. Nhưng nói tóm lại thì Ngài còn có rất
nhiều công đức đều là vô cùng, vô tận, vô lượng, vô biên, như là: trí tuệ, thần
thông, đạo lực, y báo trang nghiêm, thuyết pháp, giáo hóa, tế độ v.v… cái gì
cũng vô lượng, vô biên cả.
Chữ “kinh” thì tất cả những lời vàng do Phật nói ra
đều là Kinh. Chữ “kinh” là phần Thông, đối với 5 chữ “Phật thuyết A Di Đà” ở
trên là phần Biệt. Cả hai phần hợp lại mà thành ra cái tên của bộ kinh này. Mỗi
bộ kinh phải có đủ ba phần: phần giáo, phần hình và phần lý; phần nào cũng có
cả Thông và Biệt, muốn hiểu biết, xem bộ Thai Tạng sẽ rõ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét