Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp


Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp

Cư sĩ DiệuÂmDiệuNgộ
Phật lịch 2551 – 2007 
 
Lời Giới Thiệu
Vào khoảng đầu năm 2007, đệ tử của tôi là cư sĩ
DiệuÂmDiệuNgộ có nhờ tôi duyệt dùm tập sách “Ý
Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp” gồm 40 đề tài do cô
biên soạn. Cô nhờ tôi xem lại có chỗ nào thiếu sót hoặc
sai về giáo lý, đồng thời sửa dùm những chỗ chưa thấu
hiểu. Sau khi duyệt qua, tôi rất ngạc nhiên, không ngờ
đệ tử của mình thực hiện được những ý tưởng và nội
dung của tập sách thật là bổ ích vô cùng. Có những bài
tôi phải đọc đến ba lần vì quá thực tế, mang lại lợi ích
cho người tu tập.
 Cô là một Phật Tử tại gia tu tập pháp môn Tịnh
Độ với thời gian chưa dài lắm mà có hiệu quả đáng
khích lệ. Qua nội dung những bài viết của cô, tôi thấy
sự tu tập và khả năng nhận thức về cơ bản giáo lý Phật
Đà mà cô nhận định một cách trung thực và có hiệu
nghiệm qua quá trình tu tập, dù biết rằng Phật pháp cao
siêu, vô lượng vô biên, không thể ai tự hào hiểu biết
hết, trừ những bậc Giác ngộ hoàn toàn. Hiện tại trên
con đường tu tập chúng ta có thể trao đổi những kinh
nghiệm và khuyến tấn cho nhau để cùng hiểu biết.
 Tôi vô cùng hoan hỷ và xin góp phần hồi hướng
cho người đệ tử có nhiệt tâm để hoàn thành tác phẩm
“Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp.” Đồng thời giới
thiệu đến các bậc thiện tri thức, cùng các hành giả niệm
Phật. Nếu đọc qua có những gi chưa đầy đủ, còn thiếu
sót, xin hoan hỷ chỉ dạy thêm, chắc chắn còn nhiều
điều chưa thấu đáo.
Mùa an cư năm Đinh Hợi
 Ngày 12 tháng 7 năm 2007
SA MÔN THÍCH GIÁC HẠNH



­






Lời Mở Đầu
Kính thưa quý bạn! Ba đời mười phương chư
Phật, chư Bồ Tát thị hiện đến thế giới Ta Bà này không
ngừng nghỉ cũng chỉ vì một chữ Tâm của chúng ta.
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện đến thế giới Ta Bà này
gần ba ngàn năm trước, cũng vì một chữ Tâm của
chúng ta mà Ngài đã phải thuyết pháp hết 49 năm. Sau
khi Phật nhập niết bàn, chư Tăng, Ni tiếp tục thay Phật
để giảng giải một chữ Tâm và các Ngài đã giảng hết
gần ba ngàn năm nay vậy mà chúng ta vẫn chưa chịu
thức tỉnh. 
Chúng tôi nay không biết lấy gì để đền ơn cho ba
đời mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh
Tăng, chỉ biết theo chân quý Ngài tiếp tục giảng giải
một chữ Tâm để cúng dường đến mười phương chư
bạn.
Đây là cuốn sách mà chúng tôi đã dùng hết tâm
huyết và tinh thần để đúc kết tất cả tinh hoa cốt tủy,
những gì mà Phật đã dạy trong suốt 49 năm thuyết
pháp độ sinh. Chúng tôi mong cuốn sách nhỏ này có
thể giúp chư bạn tìm lại được chơn tâm để biết mình là
ai. Xin quý bạn hãy nhín một chút thời gian quý báu để
đọc kỹ cuốn sách này, vì nó sẽ trả lời cho quý bạn biết
hết tất cả. 
­­Con xin cúi đầu đãnh lễ, cảm tạ ân đức của đấng
từ phụ Thích Ca Mâu Ni và ba đời mười phương chư
Phật, chư Bồ Tát đã soi đường cho chúng con đi.
Con xin cúi đầu đãnh lễ, cảm tạ ân đức của Lịch
Đại Tổ sư, chư Đại thánh hiền trong quá khứ cũng như
hiện tại đã dày công hoằng truyền chánh pháp. Nhờ ân
đức cao sâu của quý Ngài mà tam tạng giáo pháp Phật
mới được tồn tại cho đến ngày hôm nay cho chúng con
có đầy đủ kinh sách để mà tu học.
Chúng tôi kính mong chư bạn đồng tu đóng
góp những điều sai sót để cuốn sách được hoàn
thiện hơn trong kỳ tái bản.

Nam Mô A Di Đà Phật
    K í n h g h i
    D i ệuÂmDiệuNgộ
Thỉnh cầu
Dù cho bận rộn đến đâu
Xin người nán lại đọc sâu sách này
Mỗi câu mỗi chữ tỏ bày
Kho tàng diệu pháp Di Đà tự tâm.
Ước mong huynh đệ tình thâm
Phát Bồ Đề nguyện trở về chơn tâm
Thoát vòng sanh tử tối tăm
Vãng sanh Cực Lạc cùng thăng liên đài.
(tức thành Phật)
Thà dốt
Tôi là người không biết làm thơ,
Luật lệ thi ca tôi không rõ
Lo: hiểu rồi chướng ngại hồn thơ.
Thà dốt để dòng tâm lưu xuất.
Hòa tâm hồn vạn vật ung dung
Ôm vũ trụ vào tâm tỉnh thức
Lý, sự dung hòa đạo là tâm
Ái ngại lo chi từ ngữ tạm
Tâm là luật, chơn là hồn thơ!

­Đạo Phật Nghĩa Là Gì?
Đạo Phật không phải là tôn giáo được đặt ra bởi
một đấng thiêng liêng tuyệt đối nào đó để bắt buộc con
người phải tuân theo mệnh lệnh, tôn thờ hay phục tùng.
 Đạo là đạo tâm, Phật là Phật tánh. Đạo Phật dạy
cho ta biết quay về để sống với chơn tâm (Phật tánh) sẵn
có của ta. Đạo Phật là giáo học dạy về chơn tướng của
vũ trụ, nhân sinh, đạo tâm và giải thoát. Chơn tướng
của vũ trụ là dạy cho ta biết vũ trụ được thành tựu hoại
diệt như thế nào. Chơn tướng nhân sinh là dạy cho ta
biết sự biến hóa nào đã tạo ra có Phật, có chúng sanh
hữu tình và vô tình. Đạo tâm là dạy cho ta từ bi, thánh
thiện, đạo đức… Giải thoát là dạy cho ta phương pháp
tu hành để chuyển phàm thành Phật. Tóm lại, đạo Phật
dạy cho ta thành Phật để sống mãi không chết, trẻ mãi 
không già, giàu hoài không nghèo và hạnh phúc an lạc
vĩnh cửu (khi vãng sanh thì ta sẽ có tất cả vĩnh cửu). 
 Nhưng tiếc thay, chúng ta xưa nay không hiểu,
ngược lại còn hiểu lầm cho đạo Phật là mê tín dị đoan,
tiêu cực bỏ quên trách nhiệm… Cũng vì si mê nghi ngờ
mà chúng ta bỏ đi cơ hội làm Phật và chịu mọi đau khổ
trong sáu ngã luân hồi không thể thoát ly. Sáu ngã luân
hồi đó là: trời, người, thần, súc sanh, ngạ quỷ và địa
ngục (luân hồi tức là đầu thai trở lại vô số kiếp).
 Tuy ở đây chúng tôi nguyện dùng hết tâm can để
giải bày nhưng khả năng và giấy mực cũng chỉ có giới
hạn, xin quý bạn hãy đi tìm kinh điển của Phật để học
hỏi thêm. Còn nếu quý bạn bận rộn không có thời gian
để nghiên cứu Phật pháp mà muốn được vãng sanh
ngay trong đời này thì quý bạn chỉ cần tin sâu niệm A
DI ĐÀ Phật, vì câu A DI ĐÀ Phật là kim cang diệu
thiền tối cao của Phật pháp, là chìa khóa mở cửa kho
tàng chơn tâm của bạn. Kim cang: nghĩa là trực chỉ
chơn tâm, thành tựu pháp thân kim cang bất hoại. Diệu
thiền: nghĩa là trực chỉ Phật tánh Di Đà khai tri kiến
Phật, thành tựu lục thông. Thật ra kho tàng thần thông
trí tuệ đó không ở đâu xa, tất cả đều đã có sẵn ở trong
tự tâm, chẳng qua chúng ta bị vô minh che lấp nên
không thấy đó thôi. Chúng ta si mê điên đảo thật là
đáng thương, thà làm kẻ ăn xin bần cùng chịu mọi đau
khổ đời đời kiếp kiếp, chớ không chịu tin lời Phật dạy
trở về chơn tâm để hưởng thụ kho tàng quý báu của
mình. 

Giờ chúng ta tìm hiểu vào phần chi tiết. Trước
khi bước vào phần chi tiết chúng tôi xin nêu ra một câu
hỏi để quý bạn tự trả lời. Tuy câu hỏi này rất là đơn
giản nhưng đây là đầu mối có thể giúp quý bạn có cái
nhìn khác hơn về đạo Phật.
 Câu hỏi: Kính thưa quý bạn! Những giáo sư, bác
học ở trên thế giới này họ đang dạy con người về
những sự chuyển biến của vạn vật muôn loài hay là họ
đang dạy con người về tôn giáo, mê tín dị đoan?
 N ếu quý bạn trả lời rằng họ đang dạy con người
về những sự tướng chuyển biến của xã hội học thì quý
bạn đã hiểu được phần nào về đạo Phật rồi đó. Còn nếu
quý bạn trả lời rằng họ đang dạy con người về tôn giáo
và mê tín dị đoan thì thần kinh của quý bạn đã có vấn
đề rồi đó. Tại sao? Vì những vị giáo sư, bác học đang
dạy con người về những sự biến hóa của vạn vật muôn
loài ở trên trái đất này, họ nào có dạy điều gì liên quan
đến tôn giáo hay là mê tín dị đoan.
 Kính thưa quý bạn! Đạo Phật cũng như vậy đó,
chư Phật đến đây là dạy cho chúng ta hiểu biết về cái
chơn tướng của vũ trụ, nhân sinh, đạo tâm và giải
thoát, quý Ngài nào có dạy điều gì liên quan đến ban
phước hay trừng phạt đâu mà chúng ta vội cho đạo Phật
là mê tín dị đoan?
 Những vị bác học ở trên trái đất này dù có tài
giỏi đến đâu thì cũng chỉ hiểu được một phần sự tướng
giả tạm của thế giới này thôi chớ không hiểu được hết.

Sự tướng giả tạm của thế gian họ còn chưa hiểu thấu thì
nói chi đến chơn tướng của tâm linh. Vì sao thế? Vì họ
cũng là phàm phu si mê điên đảo, họ chỉ hơn chúng ta
ở chỗ là có một chút thông minh và có nghiên cứu nên
mới biết. Nhưng nếu đem cái thông minh và sự hiểu
biết của họ so với chư Phật thì sự hiểu biết của họ
không bằng hạt cát giữa sa mạc.
 Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện đến thế giới Ta
Bà này gần ba ngàn năm trước, tu hành và thuyết pháp
hết 49 năm (Ta Bà là thế giới có đầy rẫy đau khổ và tộc ác).
Trong 49 năm thuyết pháp những gì Ngài nói đều
không ra ngoài tâm của chúng sanh. Không chỉ riêng
Phật Thích Ca mà ba đời mười phương chư Phật, chư
Bồ Tát cũng cùng dạy một lý lẽ. Quý Ngài cùng có một
tâm nguyện hoài bão giống nhau là giúp chúng sanh
giác ngộ lìa mê, chuyển phàm thành Phật giống như
quý Ngài. Quý Ngài xưa nay chưa hề tự đặt ra một môn
phái hay một giáo lý riêng biệt nào để bắt buộc chúng
sanh phải tôn thờ hay phục tùng.
 Trong kinh Phật nói: “Nếu có chúng sanh nào
nói kinh điển là do Phật tự thuyết thì sẽ oan ức cho chư
Phật ba đời”. Đọc đến đây chúng ta không khỏi nghi
ngờ tự hỏi: rõ ràng ba đại tạng kinh là do Phật Thích Ca
thuyết mới có và còn tồn tại cho đến ngày hôm nay,
nhưng tại sao Phật lại nói rằng: “Phật chưa hề thuyết,”
thật là vô lý quá!
 Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ: anh A có một
kho vàng chôn ở trong nhà mà không hề hay biết, cam 
tâm chịu sống đau khổ bần cùng ăn xin khắp nơi. Anh
B thấy anh A si mê tội nghiệp nên tới mách bảo cho
anh A biết rằng anh A có kho vàng được chôn ở trong
nhà, vậy những lời anh B nói với anh A là bịa đặt hay
là anh B chỉ nói chơn tướng sự thật để cho anh A biết
mà thôi?
Chư Phật ba đời mười phương cũng như anh B
vậy đó, quý Ngài đến đây chỉ là muốn nói cho chúng ta
biết tất cả chúng sanh mọi loài hữu tình ở mười phương
thế giới đều có chủng tử Phật tánh để thành Phật A DI
ĐÀ, chẳng qua chúng ta không có đủ căn duyên, phước
lành để tin lời Phật dạy đó thôi.
 Giờ chúng tôi xin phân tích thêm để quý bạn
hiểu rõ hơn tại sao Phật nói là Phật chưa hề thuyết.
Trong 49 năm thuyết pháp, những gì Phật nói đều
không ngoài ba nguyên nhân chính. Một: vì có đệ tử
hỏi, Phật trả lời. Hai: là khi gặp nhân duyên, Phật giải
thích. Ba: là Phật tự thuyết để giúp chúng sanh thành
Phật. Ý nghĩa tự thuyết ở đây không phải là Phật tự đặt
ra để thuyết mà là Phật tự động nói ra cái chơn tướng bí
mật sẵn có trong tâm của chúng sanh, cũng như anh B
tự động tới nói cho anh A biết cái kho vàng mà anh A
đang có.
Những bộ kinh đại thừa mà Phật tự thuyết đó là:
Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A DI
ĐÀ, vì vậy ngay tựa đề của những bộ kinh này đều có
ghi hai chữ “Phật thuyết”. Tức là không có ai hỏi mà
Phật tự động thuyết. Tại sao thế? Vì ý nghĩa đại thừa là
cao siêu thậm thâm vi diệu, chỉ có Phật mới hiểu được
Phật thôi, còn chúng sanh si mê như chúng ta làm sao
biết mà thưa hỏi, nên Phật phải tự động nói ra cái chơn
tướng sự thật để cứu chúng sanh.
 Tuy những bộ kinh đại thừa đều do Phật thuyết
mới có và được tồn tại cho đến ngày hôm nay, nhưng
cũng không phải do Phật tự đặt ra để thuyết. Vì sao
thế? Vì những gì Phật Thích Ca thuyết, ba đời mười
phương chư Phật đều thuyết giống nhau không khác,
quý Ngài thị hiện đến đây chỉ nói lên cái chơn tướng sự
thật đã có sẵn trong tâm chúng ta mà thôi.
 Cuối cùng kinh điển của Phật không có Phật nào
thuyết cả. Chúng tôi biết quý bạn sẽ hỏi: “Nếu không
có Phật nào thuyết vậy tại sao lại gọi là kinh điển của
Phật?”. Kính thưa quý bạn! Hai chữ “của Phật” ở đây
là nói chung tất cả tâm Phật của chúng sanh, không
phải nói của chư Phật. Nói cách khác cho dễ hiểu: là vì
chúng sanh có tâm Phật nên mới có kinh Phật. Kinh
Phật là thuộc về chúng sanh không phải thuộc về chư
Phật, tức là nói vì có chúng sanh nên mới có kinh điển
của Phật, cũng như vì có kho vàng của anh A mà câu
chuyện của anh B mới được thành lập. Nếu anh A biết
rõ mình có kho vàng thì anh B không có chuyện gì để
nói, thậm chí danh từ anh B cũng không có.
 Tóm lại, vì chúng sanh có tâm Phật mà không
biết nên chư Phật mới thị hiện ra đời để dẫn dắt thuyết
pháp. Nếu chúng sanh biết tâm Phật của mình ở đâu thì
chư Phật không cần ra đời, thậm chí danh từ Phật cũng
không có.
 N ếu chúng sanh biết tâm Phật của mình ở đâu thì
danh từ chúng sanh cũng không có. Tại sao? Vì nếu
chúng sanh biết tâm Phật ở đâu thì chúng sanh đã thành
Phật hết rồi, còn ai để mà gọi là chúng sanh. Nếu danh
từ chúng sanh không có thì làm gì có danh từ Phật, vì
vậy mà Phật nói rằng: “Phật chưa hề thuyết”. Tuy chư
Phật chưa hề thuyết nhưng tất cả chư Phật đều thuyết,
không những tất cả chư Phật đều thuyết mà tất cả
chúng sanh đều có thể thuyết. Tại sao? Vì khi thành
Phật chúng ta lại đem cái chơn tướng sự thật này chỉ
dạy cho chúng sanh đời sau, rồi cứ như vậy mà tiếp nối
dạy nhau không cùng tận. Tóm lại, trên sự thì tất cả
kinh điển đều do chư Phật thuyết mới có, nhưng trên lý
thì chư Phật chưa hề thuyết, vì chữ thuyết ở đây là từ
nơi chúng sanh mà có không phải từ nơi chư Phật.
Giờ chúng ta mới hiểu danh từ “kinh điển của
Phật” là từ nơi chúng ta mà có và hai chữ “đạo Phật”
cũng từ nơi chúng ta mà ra, không có gì là thuộc về sở
hữu của chư Phật cả. Nếu hai chữ “đạo Phật” là nói về
đạo tâm và Phật tánh của ta thì vấn đề làm Phật, Tiên,
Người, Thần, Súc sanh, Ngạ quỷ, địa ngục đều tự ta
quyết định. Nếu ta là người có quyền điều khiển vận
mạng của ta thì đâu còn ai có quyền ban phước lành
hay trừng phạt mà chỉ tự ta ban phước và trừng phạt ta
thôi. 
 Chư Phật thương chúng ta vô bờ bến, quý Ngài
không những đến đây chỉ dạy cho chúng ta biết cái
chơn tướng sự thật mà còn chỉ dạy cặn kẽ tường tận
nhiều phương pháp tu hành khác nhau, để giúp cho ta
tùy theo căn cơ, hoàn cảnh, thời thế mà tự chọn cho
mình một môn tu thích hợp. Phật dạy cho chúng ta tám
vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị với tám vạn bốn
ngàn phiền não đau khổ. Ngoài tám vạn bốn ngàn pháp
môn ra, Ngài còn từ bi chỉ dạy cho ta một pháp môn
Tịnh Độ kim cang diệu thiền thẳng tắt dễ tu, dễ chứng
và được vãng sanh ngay trong một đời (vãng sanh đồng
nghĩa với thành Phật).
Ý nghĩa tin Phật:
 Đa số chúng ta vẫn còn hiểu lầm cho rằng ai tin
Phật thì sẽ được Phật cứu, còn ai không tin Phật thì sẽ
không được Phật cứu. Thậm chí, chúng ta còn cho rằng
Phật là một đấng có quyền năng trừng phạt hay ban
phước lành. Thật ra Phật không ban phước lành hay là
trừng phạt ai cả, Ngài chỉ dạy cho chúng ta một con
đường để đi làm Phật mà thôi. Nếu chúng ta tin lời Phật
dạy, tinh tấn tu hành thì Ngài sẽ luôn luôn phóng 
quang trợ lực cho chúng ta. Phật đã làm hết sức của
Ngài rồi còn chịu làm Phật hay không là do ta tự quyết
định.
 Còn ý nghĩa tin Phật sẽ được cứu ở đây là nói:
nếu ta tin lời Phật dạy, buông xả tham, sân, si, lo tu
hành thì sẽ được thành Phật, như vậy là ta tự cứu ta rồi.
Ý nghĩa không tin Phật sẽ bị đọa ở đây, là nói nếu ta
không tin lời Phật dạy, không tin có quả báo luân hồi,
không lo tu hành mà cứ lo tạo tác ác nghiệp thì sẽ bị
đọa, như vậy là tự ta đọa ta rồi. Trong nhà Phật thường
có một câu nói “ai tu nấy chứng ai tội nấy mang”,
cũng như chúng ta ai ăn thì no, ai không ăn thì đói,
không ai có thể ăn thế cho ai hoặc chịu đói dùm cho ai.
Thờ cúng chư Phật:
 Kính thưa quý bạn! Chư Phật không hề bắt buộc
chúng ta phục tùng hay bái lạy. Nhưng chỉ vì mang ơn
và tưởng nhớ chư Phật nên chúng ta mới lập bàn thờ,
đúc tượng để lễ lạy chiêm ngưỡng. Cũng như chúng ta
mang ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ nên mới lập bàn thờ để
lễ lạy và tưởng nhớ. Ý nghĩa thờ cúng là để chiêm
ngưỡng noi gương, không phải để van xin phù hộ.
Chúng ta xưa nay thường dùng tà tri, tà kiến rồi hiểu
lầm cho rằng thờ cúng thì sẽ được phước, làm ăn phát
tài. Cũng vì những sự si mê điên đảo này mà chúng ta
đã tạo nên những cảnh tượng mê tín, cúng tế trời, đất,
quỷ, thần… Chúng ta si mê điên đảo mà không biết,
ngược lại còn hiểu lầm cho đạo Phật là đạo tiêu cực mê
tín dị đoan, thử hỏi tội lỗi này chúng ta gánh có nổi
không?
 
­Ai Là Phật A DI ĐÀ?
 Chúng ta xưa nay tưởng danh hiệu Phật A DI
ĐÀ là danh tên của một vị Phật ở cõi Tây Phương Cực
Lạc, hoàn toàn không liên quan gì đến chúng ta. Giờ 
chúng tôi xin mời quý bạn tìm hiểu vào danh hiệu A DI
ĐÀ Phật để coi có liên quan gì đến chúng ta hay 
không.
Phật: nghĩa là giác. Giác: nghĩa là trí tuệ sáng
suốt sẵn có của tất cả chúng sanh mọi loài ở trong vũ
trụ này. Bất luận bạn thuộc đạo hay tôn giáo nào, bất
luận bạn thuộc chủng tộc nào, bất luận bạn là Phật,
Trời, Người, Thần, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục thì
tất cả chúng ta đều có cùng Phật trí sáng suốt giống
nhau. Không phải chúng ta đạo Phật thì mới có Phật trí
sáng suốt, còn những người thuộc đạo hay tôn giáo
khác thì không có Phật trí sáng suốt.
Tuy loài người ở trên trái đất này có nhiều chủng
tộc và tôn giáo khác nhau, nhưng Phật trí sáng suốt của
chúng ta thì không khác nhau. Tuy chúng ta ai cũng có
Phật trí sáng suốt nhưng không biết dùng, ngược lại
còn xa lánh Phật trí sáng suốt của mình, nên mới bị trôi
lăn trong sáu ngã luân hồi không thể thoát ly.
A DI ĐÀ: là danh tên tánh đức sẵn có của tất cả
chúng sanh mọi loài ở trong vũ trụ này, còn danh tên
mà chúng ta đang có chỉ là giả tạm do người đời đặt ra
để tiện việc phân biệt anh A hay anh B mà thôi. A DI
ĐÀ: là thể tánh giác, chánh, tịnh sẵn có trong tâm của
tất cả chúng sanh. Giác: là trí tuệ sáng suốt. Chánh: là
thấy, nghe, nghĩ, hành động, lời nói đúng. Tịnh: là
thanh tịnh tịch diệt. Tóm lại, danh hiệu A DI ĐÀ chính
là danh hiệu tánh đức sẵn có vĩnh cửu của ta, còn danh 
tên hiện tại chỉ dùng để gọi tạm trong một đời, sau khi
chết mọi thứ đều trở thành cát bụi, thân ta cũng vậy. 
Chúng ta si mê thật là đáng thương xưa nay cứ
ôm cái danh tên giả tạm mà cho là thật, vì tưởng là thật
nên tranh chấp hơn thua hãm hại lẫn nhau không
ngừng, thậm chí vì cái tên giả tạm này mà rơi vào tù
tội, khi chết còn bị đọa vào ba đường ác. Còn A DI ĐÀ
là Phật tánh sáng suốt sẵn có của mình mà không hề
hay biết, vậy thử hỏi có đáng thương không?
Tuy chúng ta ai cũng có sẵn Phật tánh A DI ĐÀ,
nhưng chưa phải là Phật A DI ĐÀ. Tại sao? Vì chúng
ta chưa chịu trở về để làm Phật A DI ĐÀ. Muốn làm
Phật A DI ĐÀ thì chúng ta phải tu niệm tự tánh A DI
ĐÀ của mình từ bây giờ cho tới phút lâm chung thì sẽ
được vãng sanh thành Phật (vãng sanh đồng nghĩa với thành
Phật).
Tóm lại, Phật A DI ĐÀ là danh hiệu của đấng từ
phụ A DI ĐÀ đang ngự ở cõi Cực Lạc. Phật A DI ĐÀ
cũng là danh hiệu tánh đức của mười phương chư Phật.
Phật A DI ĐÀ cũng là danh hiệu tánh đức của tất cả
chúng sanh mọi loài ở mười phương thế giới (tức bao
gồm luôn ta).
Qua sự phân tích ở trên cho thấy chúng ta cũng
có sẵn Phật tánh A DI ĐÀ, chẳng qua ta không chịu trở
về để làm Phật A DI ĐÀ đó thôi. Xin quý bạn hãy mau
thức tỉnh, vì không có gì đáng thương bằng tự mình
ruồng bỏ trí tuệ sáng suốt của mình.
21


­Phật A DI ĐÀ Là Ai?
 Kính thưa quý bạn! Chúng ta đang tu pháp môn
Tịnh Độ để sanh về Cõi Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ thì
cần phải hiểu rõ Phật A DI ĐÀ là ai, để ta không còn
nghi ngờ thoái chuyển. Có rất nhiều người trong chúng
ta vẫn còn mập mờ không hiểu Phật A DI ĐÀ là ai và
cõi Cực Lạc đang ở đâu. Chúng ta nghi ngờ là vì chưa
hiểu được chơn tướng của sự thật.
 Giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu tóm lược vào
những đoạn kinh quan trọng trong lúc Phật Thích Ca
giới thiệu và tán thán công đức hạnh nguyện độ tha của
Phật A DI ĐÀ ở trong pháp hội “Kinh Vô Lượng
Thọ”. 
 “Có một thời, Phật (tức là Phật Thích Ca) thuyết
pháp ở thành Vương Xá Lợi trong núi Kỳ Xà Quật,
trong pháp hội lúc đó có mười hai ngàn đại Bồ Tát và
đại Thánh đều đã có thần thông trí tuệ như là: ngài
Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên,
Ca Diếp, A Nan… Những vị đại Bồ Tát làm thượng
thủ như là: ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát,
Di Lặc Bồ Tát và hết thượng chư Bồ Tát trong quá khứ
đều đến dự trong pháp hội này. Ngoài 12 ngàn đại Bồ
Tát và đại Thánh ra, còn có vô lượng Bồ Tát, Tứ chúng
đệ tử Phật và chư Thiên cũng đều tới trong đại hội để
nghe Phật thuyết pháp. Lúc đó, oai quang sắc tướng 
của Phật tự nhiên rạng rỡ hào quang sáng ngời. Ngài A
Nan trông thấy dung nhan của Phật hôm đó đẹp đẽ lạ
thường, chưa từng thấy qua, nên nghĩ thầm: “chắc Phật
đang giao du được với mười phương chư Phật hay là
Phật có pháp vi diệu muốn thuyết”. Vì vậy Ngài vội
đứng dậy đi tới trước Phật cúi đầu đãnh lễ, thỉnh xin
Phật nói pháp. Phật khen Ngài A Nan thỉnh hỏi rất hay,
vì câu hỏi của Ngài A Nan hôm nay sẽ cứu được vô
lượng chúng sanh hữu tình trong đời tương lai.
 Sau đó, Phật bảo Ngài A Nan cùng chư Bồ Tát,
Thánh chúng ở trong pháp hội hãy nghe kỹ những lời
Phật sắp nói để sau này truyền lại cho tất cả chúng sanh
hữu tình trong mười phương thế giới.
 Phật nói: “Trong vô lượng kiếp quá khứ không
thể tính đếm, có một vị Phật xuất thế hiệu là Thế Gian
Tự Tại Vương Như Lai, nói kinh thuyết pháp cho chư
Thiên và người đời nghe. Lúc đó, có một vị Quốc
Vương tên là Nhiêu Vương sau khi nghe Phật thuyết
pháp thì liền giác ngộ, hoan hỷ buông xả ngai vàng,
xuất gia tu Bồ Tát hạnh và lấy hiệu là Pháp Tạng Tỳ
kheo. Ngài Pháp Tạng có lòng từ bi, trí tuệ và đạo hạnh
rất cao không ai sánh bằng, vì muốn cứu hết chúng
sanh hữu tình trong mười phương thế giới nên Ngài
phát đại nguyện muốn xây một cõi Phật Tịnh Thổ Thù
Thắng cao siêu vượt hơn mười phương cõi Phật, vì vậy
Ngài đến thỉnh xin Phật Tự Tại Vương giảng nói cho
Ngài nghe tường tận về hoàn cảnh thanh tịnh của mười
phương cõi Phật, để Ngài tự lựa chọn những điều thanh
tịnh cao siêu nhất hầu trang nghiêm cho cõi Tịnh Thổ
của Ngài. Sau khi Phật Tự Tại Vương nghe Ngài Pháp
Tạng thỉnh xin xong thì vô cùng hoan hỷ nên liền diễn
nói và thị hiện cho Ngài Pháp Tạng thấy tường tận
hoàn cảnh thanh tịnh của 210 ức cõi Phật. Thời thuyết
pháp đó, Phật Tự Tại Vương đã giảng nói hết một ngàn
ức năm. Sau một ngàn ức năm tìm hiểu, Ngài Pháp
Tạng lại dùng hết năm kiếp tu tập để thành tựu. Sau khi
thành tựu, Ngài Pháp Tạng đến thưa với Phật Tự Tại
Vương rằng Ngài đã thành tựu xong hạnh nguyện của
Ngài. Phật khen và khuyên Ngài Pháp Tạng hãy tuyên
dương đại nguyện cho đại chúng ở khắp mười phương
nghe để đại chúng hoan hỷ mà phát nguyện sanh về cõi
nước của Ngài. Sau đó, Ngài Pháp Tạng quỳ trước mặt
Phật Tự Tại Vương mà phát ra 48 đại nguyện (xin quý
bạn hãy tìm Kinh Vô Lượng Thọ để tìm hiểu 48 đại nguyện của
Ngài vì 48 đại nguyện rất dài không thể nêu ra ở đây).
 Sau khi Ngài Pháp Tạng phát ra 48 đại nguyện
xong thì trời đất chấn động, mưa hoa từ trên trời rơi
xuống phủ lên thân Ngài và nhạc trời trỗi lên đồng
thanh tán thán rằng: “Ngài Pháp Tạng nhất định sẽ
thành Phật!” (Hết phần tóm lược tu nhân của Ngài Pháp
Tạng).
 Giờ chúng ta tìm hiểu vào đoạn kinh lúc Phật
Thích Ca nói về sự thành tựu của Ngài Pháp Tạng như
thế nào (tức nói về sự thành tựu của Phật A DI ĐÀ).
 Sau khi Ngài A Nan và đại chúng nghe Phật giới
thiệu và tán thán về đức hạnh tu hành độ tha của Ngài 
Pháp Tạng xong thì Ngài A Nan liền thưa hỏi Phật
rằng: “Ngài Pháp Tạng là Phật trong quá khứ, là Phật ở
vị lai hay là Phật đang ở thế giới khác?”
Chánh kinh: 
Phật bảo rằng: “Đức Như Lai ấy (tức là nói Phật
A DI ĐÀ) không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, vô sanh
vô diệt, cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại hay vị lai,
chỉ vì đáp tạ cái nguyện độ sanh nên Ngài hiện ở
Tây Phương cách Diêm phù Đề trăm ngàn câu ni
chi na do tha cõi Phật (tức là cách cõi Ta Bà của chúng ta
là mười vạn ức Phật độ) có một thế giới tên là Cực Lạc.
Pháp Tạng thành Phật hiệu là A DI ĐÀ. Từ khi
Ngài thành Phật đến nay đã là mười kiếp. Nay Ngài
đang thuyết pháp có vô lượng Bồ Tát và Thanh Văn
chúng đang cung kính vây quanh”. (Chữ kiếp ở đây là
đại đại kiếp, tức là vô lượng kiếp không thể tính đếm. Chữ kiếp
có nhiều ý nghĩa dài ngắn biến hóa, xin quý bạn không nên chấp chặt vào từ ngữ. Đoạn kinh này rất là quan trọng, nếu quý bạn tìm hiểu kỹ thì sẽ thấy mỗi chữ đều có sự biến hóa vô lượng không thể nghĩ bàn).
 Sau khi Phật Thích Ca tán thán công đức, hạnh
nguyện độ tha của Phật A DI ĐÀ và diễn tả cảnh đẹp
bảy báu trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc xong
thì Phật khuyên Ngài A Nan cùng hàng đệ tử và tất cả
đại Bồ Tát đang có mặt trong pháp hội, hãy dẫn dắt
chúng sanh hữu tình trong đời tương lai tu hành niệm
Phật để sanh về cõi Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ. Sau
khi khuyên dạy đại chúng xong Phật liền dùng thần 
thông thị hiện cảnh Tây Phương Cực Lạc cho đại
chúng thấy để giúp đại chúng có thêm lòng tin với Phật
A DI ĐÀ. Ngay lúc đó, Phật A DI ĐÀ cũng hiện thân
đến nơi để làm chứng tín cho đại chúng và đồng thời
cũng làm chứng cho những lời của Phật Thích Ca
thuyết là vạn lần chân thật. Hai Ngài làm như vậy là để
giúp đại chúng lúc đó và tương lai có thêm lòng tin
kiên định với Phật A Di Đà. Sau khi Phật Thích Ca
thuyết pháp xong thì trên không trung liền có mưa hoa
rơi xuống, âm nhạc trỗi lên, mười phương chư Phật,
chư Bồ Tát và Thánh chúng đồng thanh tán thán nói
rằng: “Phật Thích Ca là Phật có tài đức và lòng từ bi vô
lượng, vì ở trong thế giới Ta Bà chúng sanh tội ác cang
cường, si mê điên đảo mà có thể thuyết được pháp vi
diệu khó tin của Như Lai thì thật là không dễ.” (Vì pháp
môn Tịnh Độ chỉ có Phật mới hiểu được Phật thôi, còn chúng
sanh si mê điên đảo nghiệp chướng sâu dày như chúng ta không dễ gì hiểu được, nhưng vì muốn cứu hết chúng sanh nên Phật Thích Ca mới nói ra). Sau khi nghe Phật thuyết Kinh Vô Lượng Thọ xong thì có vô lượng chư Bồ Tát Thánh chúng ở mười phương đồng phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc của Phật A DI ĐÀ.
 Kính thưa quý bạn! Nếu chúng ta dùng con mắt
phàm phu để tìm hiểu kinh điển của Phật thì sẽ nghĩ
rằng: Ngài Pháp Tạng lúc tu nhân chỉ là một vị quốc
vương (tức người thường), sau khi nghe Phật Tự Tại
Vương thuyết pháp thì được giác ngộ, buông xả ngai
vàng, xuất gia tu Bồ Tát hạnh, lấy hiệu là Pháp Tạng, 
phát ra 48 đại nguyện, thành tựu Phật quả và xây cõi
Cực Lạc lấy hiệu là Phật A DI ĐÀ.
 C ũng như chúng ta tưởng Phật Thích Ca gần ba
ngàn năm trước chỉ là một vị hoàng tử Tất Đạt Đa (tức
người thường), sau khi đi du ngoạn ngoài bốn cửa thành
Ngài vô tình thấy được cảnh khổ, bệnh, già, chết mà
được giác ngộ. Sau đó Ngài từ bỏ ngai vàng, cha mẹ và
vợ con để xuất gia tầm sư học đạo rồi trải qua sáu năm
tu hành khổ hạnh, cuối cùng Ngài ngồi thiền định ở
dưới cội Bồ Đề mà đắc quả thành Phật và thuyết pháp
độ sanh hết 49 năm.
 Chúng ta là phàm phu nên chỉ thấy như vậy, trên
thực tế quý Ngài đều đã thành Phật trong vô lượng kiếp
lâu xa rồi, không phải chỉ mới thành Phật đây. Chắc có
lẽ quý bạn sẽ hỏi: vậy tại sao quý Ngài không thị hiện
đến đây bằng thân kim Phật, có đầy đủ thần thông biến
hóa, hào quang rực rỡ, mà quý Ngài lại thị hiện đến đây
bằng thân người có sanh, lão, bệnh, chết giống như
chúng ta? 
Kính thưa quý bạn! Vì quý Ngài thấy tất cả
chúng sanh đều có chủng tử Phật tánh Di Đà, đều có
khả năng thành Phật giống như quý Ngài. Nếu quý
Ngài thị hiện đến đây bằng thân kim Phật thì chúng ta
sẽ nghĩ rằng: chỉ có chư Phật mới có đủ trí tuệ để tu
thành Phật, còn chúng ta làm sao có trí tuệ để tu thành
Phật giống như quý Ngài, rồi từ chỗ nghi ngờ đó mà
chúng ta không chịu buông xả tu hành. Nếu chúng ta
không chịu buông xả tu hành thì Phật làm sao cứu được 
chúng ta? Vì vậy mà quý Ngài phải thị hiện bằng thân
người cũng có cha mẹ, vợ con, giác ngộ, phát nguyện,
tu hành, độ tha, thành tựu Phật quả, để giúp chúng ta có
tự tin tu hành thành Phật. Các Ngài không phải chỉ thị
hiện thân người để cứu chúng ta thôi đâu mà các Ngài
còn thị hiện thân súc sanh để độ súc sanh, hiện thân 
ngạ quỷ để độ ngạ quỷ, hiện thân địa ngục để độ địa
ngục.
 Giờ chúng ta trở lại tìm hiểu những phần quan
trọng trong tiến trình tu nhân và thành Phật của Ngài
Pháp Tạng (tức Phật A DI ĐÀ) để xem Ngài lúc đó chỉ là
người thường hay là cổ Phật tái lai. Vì sự tìm hiểu này
rất là quan trọng, nếu chúng ta chưa tìm hiểu rõ ràng
mà vội đi nghi ngờ phỉ báng thì chỉ hại mình bị đọa địa
ngục mà thôi.
1. Nếu Ngài Pháp Tạng lúc đó chỉ là người thường
mới được giác ngộ tu Bồ Tát hạnh thì Ngài làm sao có
đủ trí tuệ, đạo hạnh để thỉnh Phật Tự Tại Vương diễn
nói cho Ngài nghe hết hoàn cảnh thanh tịnh của mười
phương cõi Phật, để Ngài lựa chọn những điều thanh
tịnh cao siêu nhất thành tựu cho cõi Phật của Ngài?

2. Nếu Ngài là người thường thì Ngài làm sao có đủ
đạo hạnh và can đảm quỳ ở trước mặt Phật Tự Tại
Vương mà tuyên thệ rằng: nếu Ngài không xây dựng
được cõi Tịnh Thổ (tức Cực Lạc) vượt trội hơn mười
phương cõi Phật thì Ngài thề không thành Phật? (Ngài
muốn xây thù thắng hơn để cứu chúng sanh, không phải là để hơn thua, xin quý bạn chớ có hiểu lầm).

3. Nếu Ngài là người thường thì Phật Tự Tại
Vương cần gì phải dùng hết một ngàn ức năm để diễn
nói và thị hiện cảnh 210 ức cõi Phật cho Ngài suy nghĩ
lựa chọn? (thật ra hai Ngài chỉ đóng kịch để hoàn thành câu chuyện độ sanh mà thôi).

4. Nếu Ngài Pháp Tạng là người thường thì làm sao
có đủ trí tuệ đạo hạnh để phát ra 48 đại nguyện, trong
khi 48 đại nguyện đó là chơn tướng diệu đức sẵn có
trong diệu tâm của mười phương chư Phật và chúng
sanh?

5. Nếu Ngài là người thường vậy tại sao sau khi
Ngài phát ra 48 đại nguyện thì trời đất liền chấn động,
mưa hoa rơi xuống, âm nhạc trỗi lên và mười phương
chư Phật, chư Bồ Tát, Thánh chúng đều đồng thanh tán
thán rằng: “Ngài Pháp Tạng nhất định sẽ thành Phật!”?
(thật ra mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, thánh chúng lúc đó cũng chỉ là đóng kịch để giúp chúng sanh có vững lòng tin thôi).

6. Nếu Ngài Pháp Tạng chỉ mới thành Phật A DI
ĐÀ trong mười kiếp thì tại sao ba đời mười phương
chư Phật, chư Bồ Tát đều tán thán và tôn danh Ngài là
Phật Trung Chi Vương? (chữ mười kiếp cũng chỉ là phương tiện để giúp chúng sanh hiểu được khoảng cách của thời gian thôi. Trên thực tế cõi Cực Lạc đã thành tựu trong vô lượng kiếp rồi).

7. Nếu Ngài chỉ mới thành Phật A DI ĐÀ trong
mười kiếp thì Ngài làm sao có đủ đạo hạnh để cho hai
vị đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ở hai bên
phải - trái của Ngài đi tiếp dẫn chúng sanh ở mười 
phương thế giới về Tây Phương Cực Lạc? (Bồ Tát Quán
Thế Âm và Đại Thế Chí là hai vị cổ Phật đã thành Phật trong vô lượng kiếp lâu xa rồi).

8. Nếu Ngài là Phật A DI ĐÀ mới thành thì tại sao
ba đời mười phương chư Phật, chư Bồ Tát đều khuyên
dạy chúng sanh nên phát nguyện sanh về cõi Cực Lạc
của Phật A DI ĐÀ?
9. Nếu Ngài là Phật mới thành thì Ngài làm sao có
đủ đạo hạnh lấy danh hiệu A DI ĐÀ để đại diện cho cõi
nước của Ngài? Quý bạn nên biết rằng danh hiệu A DI
ĐÀ chỉ có Phật Tổ Tỳ Lô Giá Na mới có đủ đạo hạnh
để đại diện mà thôi. Vì sao thế? Vì đây là danh hiệu
tánh đức A DI ĐÀ của mười phương chư Phật và mười
phương thế giới chúng sanh (Phật A DI ĐÀ tức là Phật Tổ
Tỳ Lô Giá Na đấy).

Nếu nói đến cảnh giới của chư Phật thì phàm phu
si mê như chúng ta không cách chi nghĩ đến hay bàn
luận được, nhưng nhờ có ba đại tạng kinh của Phật mà
chúng ta mới hiểu được phần nào cảnh giới của chư
Phật. Dù chúng ta có đủ trí tuệ hiểu thông được ba đại
tạng kinh mà Phật dạy ở thế giới Ta Bà này thì cũng chỉ
mới hiểu được có một chút - như hạt cát giữa sa mạc
thôi. Vì sao thế? Vì ba đại tạng kinh của Phật để lại
trên thế gian này so với đại tạng kinh ở trên cõi Phật thì
chỉ là giọt nước ở trong biển, chỉ khi nào thành Phật thì
chúng ta mới hiểu được hết cảnh giới của chư Phật (Đại
tạng kinh trên cõi Phật ở đây là nói với chúng ta không phải nói với chư Phật, vì chư Phật không có kinh điển chi cả, xin quý bạn chớ hiểu lầm mà sanh ra tranh chấp từ ngữ).
 N ếu chúng ta chịu để ý nghiên cứu kỹ kinh Phật
thì sẽ thấy Ngài Pháp Tạng chính là Phật Tổ Tỳ Lô Giá
Na thị hiện tái lai. Ngài là Phật Tổ cả hai cõi Hoa Tạng
thế giới và Cực Lạc thế giới. Danh hiệu Tỳ Lô Giá Na
cũng chỉ là danh hiệu để cho chúng sanh dễ hiểu, dễ
phân biệt thôi. Trên thực tế Ngài đã có vô lượng, vô
biên danh hiệu khác nhau không thể tính đếm. Không
phải chỉ có Ngài mới có vô lượng danh hiệu khác nhau
mà tất cả chư Phật, chư Bồ Tát ba đời mười phương
cũng đều có vô lượng danh hiệu khác nhau. Vì sao thế?
Vì mỗi một nơi quý Ngài thị hiện làm Phật hay hóa
thân cứu độ chúng sanh thì quý Ngài đều lấy danh hiệu
khác nhau để giúp chúng sanh dễ phân biệt. Đó là nói
trên sự, còn trên lý thì quý Ngài không có một danh
hiệu nào cả, thậm chí danh hiệu A DI ĐÀ cũng không
có. Tại sao? Vì danh hiệu của chư Phật là bất lập ngôn
từ.
 Giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu tại sao Phật Tổ
Tỳ Lô Giá Na lại phải thị hiện làm Ngài Pháp Tạng
phát ra 48 đại nguyện, thành lập cõi Tây Phương Cực
Lạc và lấy hiệu là Phật A DI ĐÀ.
 Vì Phật Tổ thấy chúng sanh ở mười phương thế
giới si mê, nghiệp chướng sâu dày khó tự tu để thoát
khỏi luân hồi sanh tử, nên Ngài mới dùng hết thần lực
của Ngài tu trong vô lượng kiếp để xây dựng một cõi
Cực Lạc cao siêu thù thắng, hầu giúp chúng sanh đới 
nghiệp vãng sanh. Nhưng nếu Ngài âm thầm xây dựng
cõi Cực Lạc thì chúng sanh làm sao biết ở Hoa Tạng
thế giới có một cõi Cực Lạc cao siêu thù thắng giúp
chúng sanh đới nghiệp vãng sanh (Đới nghiệp nghĩa là đem theo nghiệp tội của mình để sanh về cực lạc), làm sao biết có Phật A DI ĐÀ luôn luôn phóng quang trợ lực, tiếp dẫn và dạy dỗ chúng sanh tu thành Phật. Nếu chúng sanh
không biết thì Ngài làm sao cứu được chúng sanh, làm
sao thỏa được cái nguyện độ tha của Ngài? Vì vậy mà
Ngài phải thị hiện làm Ngài Pháp Tạng để tạo nên câu
chuyện độ tha của Phật A DI ĐÀ. Nhờ có câu chuyện
độ tha của Phật A DI ĐÀ mà ba đời mười phương chư
Phật, chư Bồ Tát mới giới thiệu để cứu chúng sanh mọi
loài.
 T ại sao Phật Tổ không lấy danh hiệu khác mà
phải lấy danh hiệu A DI ĐÀ và còn khuyên chúng sanh
hãy niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài đến nơi
tiếp dẫn sanh về Cực Lạc? (Khi viết đến đoạn này tôi vô
cùng xúc động không thể viết tiếp. Tại sao? Vì mỗi khi cầm bút lên thì nước mắt của tôi cứ tuôn chảy mãi, dù tôi có bị tan xương nát thịt đến vô lượng kiếp cũng không sao đền được ân đức cao sâu của Phật A DI ĐÀ, chư Phật và chư Bồ Tát).
 Kính thưa quý bạn! Vì tất cả chúng ta mà Phật
Tổ mới xây dựng cõi Cực Lạc và lấy hiệu là Phật A DI
ĐÀ. Tại sao? Vì Phật Tổ thấy tất cả chúng sanh đều có
sẵn Phật tánh A DI ĐÀ, chẳng qua chúng sanh si mê
điên đảo chạy theo dục vọng, bỏ quên Phật tánh không
biết quay về. Vì muốn cứu hết thảy chúng sanh nên

Ngài lấy tánh đức A DI ĐÀ sẵn có của chúng sanh để
đại diện cho Ngài, rồi sau đó khuyên dụ chúng sanh
hãy niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được Ngài đến nơi
tiếp dẫn đưa về Cực Lạc để tu thành Phật, đây là khổ
tâm và dụng ý của Ngài.
 T ại sao Phật không nói cho chúng ta biết rõ sự
thật mà Ngài phải dùng phương tiện để cứu chúng ta?
Vì Ngài biết dù có nói chúng sanh cũng không có đủ trí
tuệ để hiểu suốt. Tại sao? Vì Phật tánh A DI ĐÀ của
chúng sanh không có hình tướng, nếu không có hình
tướng thì Phật làm sao có thể giải bày, nên chỉ còn cách
là lấy danh hiệu tánh đức A DI ĐÀ sẵn có của chúng
sanh để đại diện cho Ngài. Vì Ngài biết rõ chỉ cần
chúng sanh tin sâu tu niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ
khai mở được Phật tánh A DI ĐÀ, khi Phật tánh A DI
ĐÀ được khai mở thì tự chúng sanh sẽ hiểu ra danh
hiệu A DI ĐÀ chính là danh hiệu tánh đức sẵn có của
chúng sanh. Ngài chỉ mong chúng sanh chịu niệm Phật
tánh A DI ĐÀ thì Ngài mới truyền được thần lực của
Ngài vào thân tâm chúng sanh. Còn nếu chúng sanh
không chịu niệm Phật tánh A Di Đà, không chịu tiếp
nhận thần lực ánh sáng của Ngài thì dù Ngài muốn cứu
cũng không nổi. Cũng như Ngài đã đem thuyền chờ sẵn
ở ngoài bến, nhưng chúng sanh không chịu cất bước để
leo lên thuyền thì Ngài làm sao cứu được chúng sanh
thoát khỏi biển lửa luân hồi sanh tử.
Còn 48 đại nguyện mà Phật phát thệ cũng không
phải tự Ngài đặt ra mà tất cả những gì Ngài nói trong 
48 đại nguyện đó đều có sẵn trong tự tánh A DI ĐÀ
chúng ta. Chúng ta chỉ cần tin sâu tu niệm tự tánh A DI
ĐÀ, khi được vãng sanh thì sẽ có tất cả thần thông trí
tuệ như trong 48 đại nguyện. Vì vậy mà Phật tuyên thệ
rằng: “Nếu chúng sanh vãng sanh về cõi nước của ta
mà không có đủ những gì như ta đã nói ở trong 48
đại nguyện thì ta thề không làm Phật”. Thật ra không
phải đợi đến khi vãng sanh chúng ta mới có thần thông
trí tuệ mà ngay giây phút hiện tại cũng có thể khôi phục
được phần nào tùy theo sự tu hành sâu, cạn của ta. Nếu
chúng ta tu niệm ít thì sẽ khôi phục được thần thông trí
tuệ và hạnh phúc an lạc ít, nếu chúng ta tu niệm nhiều
thì sẽ khôi phục được thần thông trí tuệ và hạnh phúc
an lạc nhiều. Tóm lại, tất cả đều do ta quyết định mà
thôi.
Kính thưa quý bạn! Phật A DI ĐÀ phát ra 48 đại
nguyện là đã phơi bày tất cả diệu đức sẵn có ở trong
tâm ta, vậy mà xưa nay ta có mắt như mù không hay
biết gì cả, ngược lại còn đi phỉ báng nghi ngờ. Giờ thức
tỉnh mới thấy 48 đại nguyện của Phật A Di Đà chính là
cảnh giới nhiệm màu sẵn có trong diệu tánh A DI ĐÀ
chúng ta và Tây Phương Cực Lạc cũng vì chúng ta mà
Phật Tổ mới xây dựng.
Nếu chúng ta chịu quán xét tìm hiểu tiến trình độ
tha của chư Phật, chư Bồ Tát từ xưa đến nay thì sẽ thấy
Phật Thích Ca thị hiện đến đây gần ba ngàn năm trước
đóng vai làm mẹ nhảy vào biển lửa để dẫn dắt chúng ta.
Còn Phật A DI ĐÀ ở Tây Phương Cực Lạc đóng vai 
làm cha ngày đêm mỏi mắt mong chờ và tiếp dẫn các
con đưa về Cực Lạc để tu thành Phật. Ngoài ra cha còn
phóng quang tới mười phương thế giới Ta Bà mỗi giây
mỗi phút để bảo vệ, trợ lực cho các con không bị vấp
ngã bởi cạm bẫy của Ma Vương.
Ngoài mẹ là Phật Thích Ca và cha là Phật A DI
ĐÀ, chúng ta còn có hai đại sư tỷ có lòng từ bi vô tận
đó là: Đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Hai
đại sư tỷ có lòng từ bi vô tận này lúc nào cũng ở bên
cạnh để trợ lực và dạy dỗ tiếp dẫn chúng ta. Ngoài cha
mẹ và hai đại sư tỷ ra, chúng ta còn có vô lượng cha mẹ
và vô lượng đại sư huynh, sư tỷ ở mười phương thế
giới mỗi giây mỗi phút cũng đang trông chờ và phóng
quang trợ lực để bảo vệ, vậy chúng ta còn tham đắm ở
trong biển lửa luân hồi này để làm gì mà không mau đi
về Cực Lạc để đoàn tựu với gia đình? (Xin quý bạn hãy
suy nghĩ lại).
Xin quý bạn hãy tìm bộ kinh “Vô Lượng Thọ
Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” do Ngài Hạ Liên
Cư hội tập và Ngài cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải để
tìm hiểu thêm về Phật A DI ĐÀ, cõi Cực Lạc và tìm
hiểu về chơn tướng nhiệm màu sẵn có ở trong tự tánh
Di Đà của chúng ta. Đây là bộ kinh được hội tập và chú
giải hoàn chỉnh nhất từ khi Phật nhập Niết Bàn. Bộ
kinh này đang được Ngài pháp sư Tịnh Không cùng
các chư Tăng, Ni trong và ngoài nước thuyết giảng
khắp nơi. Xin quý bạn đừng bỏ qua cơ hội học bộ kinh
này, vì chỉ có bộ kinh này mới giúp chúng ta vãng sanh 
ngay trong một đời và bộ kinh này cũng là thể tánh
chơn tâm của mỗi chúng ta.
Chúng ta hãy phát tâm ấn tống cuốn kinh “Vô
Lượng Thọ” này cúng dường khắp nơi để giúp chư
Tăng, Ni và Phật tử có thêm tài liệu quý báu nghiên
cứu tu hành, vì đây là báu vật vô giá của thế gian.
Trước kia, khi tôi nghe Ngài pháp sư Tịnh Không giới
thiệu: “Bộ kinh Vô Lượng Thọ do Ngài Hạ Liên Cư 
hội tập và Ngài cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải là bộ
kinh hoàn chỉnh nhất từ khi Phật nhập Niết Bàn”, trong
tâm tôi vô cùng mong ước có được cuốn kinh này,
nhưng vì bận rộn nhiều việc Phật sự nên chưa có thời
gian đi tìm, phần tôi thắc mắc không biết bộ kinh này
có được dịch sang tiếng Việt hay chưa. Không ngờ
những điều mơ ước trong tâm tôi được chư Phật cảm
ứng, tự nhiên có một người bạn đạo gọi phone tặng cho
tôi một cuốn kinh Vô Lượng Thọ chú giải của Ngài
Hoàng Niệm Tổ. Tôi vô cùng mừng rỡ, bỏ hết công
việc chạy đến để thỉnh ngay. Sau khi thỉnh về tôi tập
trung nghiên cứu, đọc tới đâu tôi xúc động tới đó vì
mỗi chữ trong cuốn kinh này đều tỏa ra hào quang biến
hóa vô lượng (Ngoài Phật thị hiện ra không ai có thể hội tập chú giải được hay như vậy, thật đúng như lời của chư cổ đức tán thán). Cũng nhờ có Ngài Như Hòa ở Bửu Quang Tự từ bi khổ công dịch sang tiếng Việt, nếu không chúng ta không biết đến bao giờ mới có được bộ kinh quý báu này để tu học (bộ kinh này được Ngài Như Hòa dịch sang tiếng Việt năm 2002). 
Chúng ta may mắn có bộ kinh quý báu này trong
tay thì hãy phát tâm từ bi ấn tống để lưu thông khắp nơi
trong và ngoài nước để mọi người đều được thấm
nhuần trong mưa pháp và cùng được vãng sanh. Bộ
kinh này đã có vài vị đọc và thâu vào băng đĩa đang ấn
tống khắp nơi hoặc quý bạn có thể vào website
H Uwww.dieuamdieungo.comU H thâu ra đĩa để ấn tống khắp
nơi (cuốn kinh này dày khoảng 719 trang, nếu in ở Việt Nam thì
hơn 1000 trang).